Trải qua một quá trình lịch sử lâu dài, Thăng Long – Hà Nội là kinh đô bậc
nhất của các triều đại phong kiến Việt Nam. Những danh sĩ tài hoa với áng văn
chương cổ đã trở thành niềm tự hào của vùng đất kinh kỳ..
Khi Hà Nội chỉ là một tỉnh Bắc Kỳ, dưới sự xâm lược của thực dân Pháp thì nó
cũng có sự biến đổi mà trước hết nó trở thành một trung tâm phát triển một ngôn
ngữ mới – chữ Quốc ngữ.
Sự ra đời của chữ Quốc ngữ không phải ngẫu nhiên mà cũng không phải do sự “hảo
tâm” của thực dân Pháp trong quá trình cai trị nước Việt. Nguyên nhân chủ yếu
dẫn đến sự ra đời chữ Quốc ngữ chính là phục vụ cho việc truyền đạo của các tu
sĩ khi đến nước ta. Các giáo sĩ đã dùng chữ cái La tinh để ghi âm tiếng Việt và
cho đến Alexandre de Rhodes với tác phẩm “Bài giảng giáo lý Tám ngày cho kẻ muốn
rửa tội vào ngày đạo đức chúa trời” đầu tiên bằng tiếng Việt và cuốn từ điển
Việt – Bồ - Latinh đầu tiên xuất bản năm 1651 đã chính thức đánh dấu mốc ra đời
của chữ Quốc ngữ.
Tuy nhiên, do mục đích Latinh hóa chữ viết của ta để làm công cụ truyền đạo nên
nó không có tác động lớn đối với việc phát triển văn hóa dân tộc. Do tính chất
bảo thủ chỉ biết “chữ của thánh hiền” nên không phát triển mà còn ngăn cản sự
hình thành của chữ viết mới.
Thế nhưng, ngay Hà Nội với những tư tưởng tiến bộ của các danh sĩ đương thời thì
chữ Quốc ngữ đã dần được coi trọng và đề cao trong cuộc sống. Công lao truyền bá
và phát triển chữ quốc ngữ sâu rộng trong đời sống người dân không thể không kể
đến Nguyễn Văn Vĩnh, một nhà tân học, nhà báo, nhà văn Việt Nam đầu thế kỷ 20.
Nguyễn Văn Vĩnh quê gốc ở làng Phượng Vũ, xã Phượng Dực, phủ Thường Tín, tỉnh Hà
Đông (nay là huyện Phú Xuyên, Hà Nội). Gia đình ông làm nghề nông, đói nghèo nên
phải bỏ quê ra thành phố kiếm sống và ở nhờ tại phố Hàng Giấy.
Ông sinh ngày 15/6/1882 tại số nhà 46 phố Hàng Giấy, trong cảnh loạn lạc, vào
lúc thành Hà Nội bị quân Pháp đánh chiếm lần thứ hai, do Henri Rivière chỉ huy,
được hơn một tháng. Sau đó buộc triều đình Huế ký hiệp ước Patenôtre (1884) nhận
đầu hàng, và Hà Nội trở thành đất nhượng địa của thực dân Pháp. Sự xuất hiện của
quân Pháp chiếm đóng Hà Nội đã có tác động lớn đến cuộc đời sau này của ông.
Vì là anh cả trong gia đình đông con, ngay từ năm 8 tuổi, Nguyễn Văn Vĩnh đã
được xin cho làm công việc kéo quạt ở trường thông ngôn của Pháp mới mở ở phường
Yên Phụ để kiếm tiền phụ giúp gia đình. Cậu bé Nguyễn Văn Vĩnh thường ngồi phía
cuối lớp kéo hai chiếc quạt nối liền nhau, vừa quạt mát cho giáo viên vừa quạt
mát cho học sinh là những ông Tú tài Nho học thất thế quay ra học tiếng Pháp để
làm thông ngôn. Cậu cũng chăm chú nghe giảng, cũng nói được và viết được tiếng
Pháp, lại còn thông thạo hơn nhiều học sinh lớn tuổi khác. Cậu ghi nhớ mọi thứ
rất nhanh và còn trả lời được các câu hỏi của thày giáo trong khi các cậu con
nhà giàu trong lớp còn đang lúng túng.
Hiệu trưởng là ông D’Argence thấy vậy, sau ba năm mãn khóa, cho cậu thử thi tốt
nghiệp. Lớp học có 40 học sinh, cậu đỗ thứ 12 khi mới 11 tuổi. Hiệu trưởng đặc
cách nhận cậu vào học chính thức, được hưởng học bổng, để theo học khóa tiếp
theo. Nguyễn Văn Vĩnh được là học sinh chính thức lớp thông ngôn tập sự ngạch
tòa sứ khóa 1893-1895, và đã đỗ thủ khoa lúc 14 tuổi, được tuyển đi làm thông
ngôn ở tòa sứ Lao Cai sau đó ông lần lượt làm thư ký cho các Tòa công sứ Kiến
An, Bắc Ninh và Tòa tổng đốc Hà Nội.
Với chủ trương mở mang học hành, lập các tổ chức y tế và hội thiện của thực dân
Pháp, Nguyễn Văn Vĩnh đã trở thành sáng lập viên của các hộ và trường học được
lập ra thời bấy giờ như trường Đông Kinh nghĩa thục, Hội Trí Tri, Hội dịch sách,
Hội giúp đỡ người Việt sang Pháp học…
Năm 1906 ông được cử đi dự hội chợ Marseille và được chứng kiến tận mắt nền văn
minh của nước Pháp, đi thăm một số nhà in, nhà xuất bản và tìm hiểu nền báo chí
của Pháp.
Sau khi trở về nước, với tư tưởng "Nước Nam ta mai sau này hay dở cũng ở chữ
quốc ngữ". Ông và lớp trí thức thế hệ ông đã làm cuộc cách mạng chữ viết thành
công hồi đầu thế kỷ. Ông đã xin thôi việc, mở nhà in và làm chủ bút của nhiều tờ
báo. Năm 1907 ông mở nhà in đầu tiên ở Hà Nội và xuất bản tờ Đăng Cổ Tùng Báo -
tờ báo đầu tiên bằng chữ Quốc ngữ ở Bắc Kỳ. Đáng kể nhất là việc khuyến khích,
dạy dân Việt viết văn dùng chữ Quốc Ngữ qua tờ Đông dương Tạp chí (1913).
Ngoài ra, ông còn nhiều công trình dịch thuật văn học như dịch thơ ngụ ngôn,
truyện cổ tích, kịch từ tiếng Pháp sang tiếng Việt. Ông cũng là người đầu tiên
dịch “Truyện Kiều” sang tiếng Pháp. Bản dịch “Kiều” của ông Vĩnh rất đặc sắc vì
ông không chỉ dịch cả câu mà còn dịch nghĩa từng chữ và kể rõ các tích cổ gắn
với nghĩa đó - một điều chỉ có những ai am hiểu sâu sắc văn chương Việt Nam
(bằng chữ Nôm), Trung Hoa (bằng chữ Nho), và Pháp mới có thể làm được. Sự cố
gắng và sức làm việc phi thường của ông Vĩnh đã góp phần rất quan trọng trong
việc truyền bá kiến thức và văn hoá phương Tây trong dân Việt, và đẩy xã hội
Việt Nam đi đến chỗ dần dần chấp nhận chữ Quốc ngữ.
Năm 1915 vua Duy Tân ra chỉ dụ bãi bỏ các khoa thi (Hương - Hội - Đình) ở Bắc
Kỳ. Năm 1918 vua Khải Định ra chỉ dụ bãi bỏ các khoa thi này ở Trung Kỳ và đến
năm 1919 bãi bỏ hoàn toàn các trường dạy chữ Nho, thay thế bằng hệ thống trường
Pháp - Việt. Năm 1924, toàn quyền Đông Dương Merlin ký quyết định đưa chữ Quốc
ngữ vào dạy ở ba năm đầu cấp tiểu học. Như vậy là, sau gần ba thế kỷ kể từ khi
cuốn từ điển Việt - Bồ - Latinh của Alexandre de Rhodes ra đời, người Việt Nam
mới thật sự đoạn tuyệt với hệ chữ viết của Trung Hoa, chính thức chuyển sang
dùng chữ Quốc ngữ. Đây quả thực là một cuộc chuyển hóa vô cùng lớn lao, trong đó
ông Nguyễn Văn Vĩnh đã vô hình chung đóng vai trò một nhà văn hóa lớn của dân
tộc Việt Nam.
Nguyễn Văn Vĩnh là người Việt Nam đã hai lần từ chối Huân chương Bắc đẩu bội
tinh của chính phủ Pháp ban tặng, và ông đã cùng với bốn người Pháp viết đơn gửi
chính quyền Đông Dương phản đối việc bắt giữ cụ Phan Chu Trinh. Ông bị thực dân
Pháp không ưa. Tòa soạn của ông bị vỡ nợ và ông đã phải sang Lào đào vàng rồi
chết bởi một cơn sốt rét ác tính. Người ta tìm thấy xác của ông trong một con
thuyền độc mộc, trên tay vẫn nắm chặt cây bút và một quyển sổ ghi chép về thiên
ký sự bằng tiếng Pháp “Một tháng với những người tìm vàng” vào năm 1936.
Khi đoàn tàu chở chiếc quan tài mang thi hài ông Vĩnh về đến ga Hàng Cỏ, hàng
ngàn người dân Hà Nội đứng chờ trước quảng trường nhà ga để đưa tiễn ông – con
người bằng tài năng và sức lao động không biết mệt mỏi của mình đã góp phần làm
cho chữ Quốc ngữ trở thành chữ viết của toàn dân Việt.
Vai trò của Nguyễn Văn Vĩnh trong sự truyền bá người dân Việt sử dụng chữ Quốc
ngữ là không thể phủ nhận, ông là một trong những người mở đường cho một nền văn
hóa mới, sử dụng ngôn ngữ mới và tiến lên dùng chính ngôn ngữ mà thực dân Pháp
dạy ta để chống lại chúng trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, giành độc
lập cho dân tộc thời kỳ này.