Trong nhiều tác phẩm văn học, âm nhạc, truyền hình hiện nay, chúng ta thường
nghe đến cụm từ “Hà Nội 36 phố phường” nhưng xuất xứ và những thông tin liên
quan đến nó không phải ai cũng biết. Về băn khoan này, giáo sư sử học Lê Văn Lan
đã từng đưa ra ý kiến như sau
“Chúng ra đang có 2 văn bản đều có tên: Hà Nội 36 phố phường, thực ra là 2 bài
thơ - đúng hơn là hai bài vè - đều có tên là Hà Nội 36 phố phường. Một bản kể:
Phồn hoa thứ nhất Long thành/36 phố rành rành chẳng sai… Bản kia cũng là Hà Nội
36 phố phường nhưng lại kể: Phồn hoa thứ nhất Long Thành/Phố giăng mắc cửi chạy
quanh bàn cờ….. Nếu cộng các tên phố có trong các bài Hà Nội 36 phố phường thì
thấy có tất cả có hơn 50 phố.
Văn bản có tên 36 phố phường ấy ra đời vào cuối thế kỷ 19, gây ấn tượng lớn
nhưng không nên hiểu đó là sự đánh dấu của việc ra đời Hà Nội 36 phố phường, bởi
Hà Nội 36 phố phường là điều không có trong lịch sử. Hà Nội chỉ có 36 phường vào
thời Lê và có hơn 50 phố bắt đầu bằng chữ “Hàng” ở cuối thế kỷ 19.
Vì sao mọi người hay nhắc tới câu Hà Nội 36 phố phường? Có lẽ “công tích” thuộc
về nhà văn Thạch Lam. Tác phẩm Hà Nội 36 phố phường của Thạch Lam quá nổi tiếng,
nên dù không là sự thật lịch sử thì vẫn được mọi người đón nhận. Và người ta vẫn
dùng Hà Nội 36 phố phường như 5 cửa ô của Văn Cao hay Thăng Long - Đông Đô - Hà
Nội của Nguyễn Đình Thi.
Tác dụng của Văn học nghệ thuật là cực kỳ lớn. Rất tiếc là khoa học chưa can dự
để trả lại tính chính xác của các thông tin này bên cạnh tính hấp dẫn của nó”.
Một trong các số các bài ca về 36 phố phường được ghi trong sách Việt Nam thi
văn hợp tuyển của Dương Quảng Hàm có nôi dung như sau: “Rủ nhau chơi khắp Long
thành/Ba mươi sáu phố rành rành chẳng sai:/Hàng Bồ, hàng Bạc, hàng Gai,/Hàng
Buồm, hàng Thiếc, hàng Hài, hàng Khay,/Mã Vĩ, hàng Điếu, hàng Giầy/Hàng Lờ, hàng
Cót, hàng Mây, hàng Đàn,/Phố Mới, Phúc Kiến, hàng Ngang,/Hàng Mã, hàng Mắm, hàng
Than, hàng Đồng,/Hàng Muối, hàng Nón, cầu Đông,/Hàng Hòm, hàng Đậu, hàng Bông,
hàng Bè,/Hàng Thùng, hàng Bát, hàng Tre,/Hàng Vôi, hàng Giấy, hàng The, hàng
Gà,/Quanh đi đến phố hàng Da,/Trải xem hàng phố, thật là cũng xinh./Phồn hoa thứ
nhất Long thành,/Phố giăng mắc cửi, đường quanh bàn cờ/Người về nhớ cảnh ngẩn
ngơ/Bút hoa xin chép vần thơ lưu truyền”.
Xét theo ghi chép của sách sử thì 36 phố phường được đặt ra từ thời vua Lê Hiển
Tông với mục đích duy nhất là thuận tiện hơn trong việc giữ gìn an ninh, trật
tự. Theo sách Đại Việt sử ký tục biên, vào tháng 12 năm Mậu Thìn niên hiệu Cảnh
Hưng thứ 9 (1748) triều đình “hạ lệnh chia bên trong kinh thành làm 36 khu, mỗi
khu đặt một quan coi giữ việc tuần phòng, khám xét. Lại định phép ty tộc đoàn
(liên kết các gia tộc ở gần nhau cùng giữ an ninh). Tiếp đó lại chia làm 9 điện,
mỗi điện có 4 khu, mỗi khu đặt một viên chánh khu”.
Trong tác phẩm Vũ Trung tùy bút của danh sĩ sống vào giai đoạn cuối thời Lê đầu
thời Nguyễn là Phạm Đình Hổ cho biết cụ thể hơn về điều này: “Kinh thành Thăng
Long chia ra 36 phường, mỗi phường đặt một người phường trưởng. Lại đặt ra phủ
Phụng Thiên có quan Phủ doãn, quan Thiếu doãn kiêm coi cả việc tuần phủ và việc
liêm sát, đốc suất hai huyện Thọ Xương và Quảng Đức, mỗi huyện có quan Huyện úy
cai trị. Toàn thành thì cử một quan trọng thần sung chức Đề lĩnh tứ thành quân
vụ, phân ra chánh phó hai dinh, chuyên coi việc cấm phòng, xét hỏi.
Song đất kinh thành đông đúc, nhà ở liễn nhau, thường có hỏa hoạn, lại nhiều
những kẻ đầy tớ nhà quan, du đãng cờ bạc, gây chuyện đánh nhau, cãi nhau, cùng
là những kẻ vô lại trộm cắp, nhiều lắm không thể kể xiết được, chẳng khác gì lục
hải khi xưa là nơi bể cạn, vật sản rất nhiều, mà lại không thiếu một hạng người
nào cả. Đời Trịnh An Đô Vương (tức Trịnh Cương- TG), Nguyễn Công Hãng làm Thượng
thư cầm quyền chính, mới chia hai huyện ra làm tám khu, mỗi khu đặt một người
trưởng khu và một người phó khu; lại chia ra năm nhà là một tị, hai tị là một
lư, mỗi lư cũng có một lư trưởng; bốn lư là một đoàn, mỗi đoàn đặt một quản
giám, hai quản điểm, dưới quyền người khu trưởng và trực thuộc quan Đề lĩnh.
Đó là phỏng cái ý cổ nhân bảo trợ phù trì lẫn nhau. Phàm những việc phòng hỏa,
phòng trộm và nhất thiết những việc giao dịch thuế má đều ủy trách cho khu
trưởng, đoàn trưởng cả. Bởi vậy, những con nhà khá giả coi thường, không thèm ra
làm, chỉ để cho những côn đồ trong các xóm chợ ra làm. Bọn chúng cùng những kẻ
ti thuộc quan Đề lĩnh thông nhau làm càn, rất phiền nhiễu cho dân phố. Ôi! “Sinh
nhất sự bất như trừ nhất hại” (thêm ra một việc không bằng bớt đi một tai hại)
lời nói ấy rất đúng.
Theo lệ cũ, chốn kinh thành không phải chịu thuế dung, thuế điệu, chỉ tính từng
dãy nhà, không cứ nhà quan hay nhà dân, hàng năm mỗi nhà phải chịu một suất đi
sửa sang đắp lại nền cắm cờ tướng, dọn cỏ chung quanh cung đình, cung ứng các
việc kiến trúc. Họ phải thay phiên nhau sắm đủ dây đòn, câu liêm, thang tre, bó
đuốc, thùng gánh nước để theo quân quan Đề lĩnh đi túc trực các nơi điếm canh,
phòng khi sai khiến; công việc rất là phiền nhiễu. Song tóm lại không tiền là
không xong, chỉ làm nặng túi kẻ gian hoạt. Tuy bảo rằng “phù bản ức mạt” (bồi
đắp gốc rễ, ngăn chặn ngọn cành), nhưng cũng không phải là biện pháp tốt của đời
thái bình”.
Đến thời vua Gia Long nhà Nguyễn, trong một số sách dư địa chí như cuốn “Các
tổng, trấn, xã danh bị lãm”, “Hoàng Việt dư địa chí”… cho biết tên của 36
phường. Cụ thể, ở huyện Thọ Xương có 18 phường gồm: Yên Thọ, Hà Khẩu, Báo Thiên,
Đông Hà, Đồng Xuân, Đông Tác, Đông Các, Cổ Vũ, Xã Đàn, Đồng Lạc, Thái Cực, Diên
Hưng, Khúc Phố, Phục Cổ, Phúc Lâm, Kim Hoa, Hồng Mai, An Xá. Mười tám phường còn
lại thuộc huyện Vĩnh Thuận là: Bích Câu, Quảng Bá, Thuỵ Chương, Yên Thái, Hoè
Nhai, Tây Hồ, Nghi Tàm, Nhật Chiêu, Trích Sài, Võng Thị, Bái Ấn, Yên Lãng, Công
Bộ, Thạch Khối, Hồ Khẩu, Thịnh Quang, Yên Hoa và Quan Trạm.
Vào năm Tân Mão (1831) vua Minh Mạng tiến hành cuộc cải cách lớn, trong đó có
việc phân chia và đặt tên mới theo địa giới hành chính cấp tỉnh; lúc này Thăng
Long xưa được sáp nhập với một số khu vực khác thành tỉnh Hà Nội với diện tích
rộng hơn, gồm 4 phủ, 15 huyện so với Thăng Long xưa. Trong số 15 huyện của Hà
Nội vẫn có 2 huyện Thọ Xương và Vĩnh Thuận thuộc phủ Hoài Đức, 36 phố phường đều
nằm trong địa phận hai huyện này. Sách “Hoàng Việt dư địa chí” in vào năm Qúy Tị
(1833) cho biết như sau: “Phủ Hoài Đức, xưa là phủ Phụng Thiên có hai huyện, 13
tổng, 249 thôn phường. Huyện Thọ Xương: 18 phường. Huyện Vĩnh Thuận (xưa là
huyện Quảng Đức): 18 phường”.
Trải qua thời gian và biến thiên của lịch sử, phố phường Hà Nội xưa đã thay đổi
nhiều về tên gọi, số lượng cũng như diện tích nhưng một số vẫn giữ nguyên tên cũ
như gợi nhắc cho những tâm hồn hoài niệm về một Hà Nội trong quá khứ./.