24/09/2012
|
09:27:27
Có phải em là mùa thu Hà Nội
|
Mùa Thu Hà Nội. |
Nói đến mùa thu, người ta hay nghĩ đến lá vàng. Lá nhuộm vàng trên cây, lá
vàng mặt đất như trong bức họa trứ danh “mùa thu vàng” của danh họa Levitan – đó
là mùa thu của nước Nga. Còn mùa thu Hà Nội thì sao?
“Tháng tám mùa thu lá khởi vàng chưa nhỉ?” Câu hỏi tưởng như vu vơ của một
người bâng khuâng tự hỏi mình ấy thật dễ thương khiến tôi nhớ lại một chuyện:
Đại lễ 1000 năm Thăng Long, gia đình tôi được đón nhiều bạn bè. Anh bạn người
Sài Gòn, mười mấy năm mới trở lại Hà Nội cứ băn khoăn mãi: Mù thu lá vàng sao
anh tìm mãi chẳng thấy chiếc lá vàng nào? Ở đâu rùi những con phố trong bài thơ
Đất nước của nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã làm xao xuyến bao trái tim những người
yêu Hà Nội?
“...Những phố dài xao xác hơi may/ Người ra đi đầu không ngoảnh lại/ Sau
lưng thềm vắng lá rơi đầy...”
Bạn xa ơi, tháng Tám mùa thu... Hà Nội vẫn còn nóng. “Nắng tháng Tám, rám
trái bưởi” cơ mà. Bầu trời mùa thu thật cao, thật xanh, xôn xao hoa nắng và
những hàng cây xanh mướt rợp trên các ngả đường, lấy đâu ra lá vàng bay.
Hà Nội đẹp và dễ chịu nhất vào các tháng 10, 11, 12 dương lịch, khi những
trận mưa bão cuối mùa cũng đã hết, nắng vàng như rót mật và se se con gió heo
may ướp thơm hương cốm, hương hoa. Đó cũng là mùa cưới hỏi rộn ràng nhất. Những
ngày đẹp, từng đoàn xích lô chở các bà mặc áo dài, mang lễ hỏi trôi dềnh dàng
trên phố như khoe; những xe hoa đón dâu trang trí điệu đà chạm nhau ở mỗi ngã
tư, chạm những ánh nhìn khát khao, náo nức... Cuối thu đầu đông rồi đấy, nhưng
cũng làm gì có lá vàng rơi.
Những bức ảnh thiếu nữ áo dài đùa với lá vàng trên đường Hà Nội, những bức
ảnh chị bán hàng rong tần tảo đi trong lá vàng ban ấy chỉ có thể chụp vào đầu
tháng 5, khi những cây sấu cổ thụ trên đường Hà Nội vừa trút lá già, vừa thay lá
non. Dưới gốc là lá vàng xao xác nhưng trên cành lá non đã xanh mướt, dịu dàng.
Dạo trên con đường lá, thấy lòng mình êm ả, chợt bâng khuâng mỉm cười ngắm lá
vàng bay. Nhiều đống lá đã được vun gọn lại, vàng tươi, khiến tôi bỗng có một
ước muốn điên rồ là được ôm lấy chúng, tung ra, trải ra, dát vàng hết vỉa hè.
Chợt nghe lòng ngân lên câu hát “có phải em là mùa thu Hà Nội, ngày thu sang anh
lót lá em nằm...”.
Trong thực tế, trong thơ, trong họa, trong những tiểu thuyết lãng mạn nhất
viết về Hà Nội chưa từng thấy hình ảnh thiếu nữ Hà Nội nằm trên lá bao giờ, dù
thảm lá ấy thật đẹp, chỉ thấy duy nhất trong bài hát phổ thơ này. Có lẽ, vì thảm
lá của Hà Nội chưa đủ dày. Có lẽ, vì sự giáo dục của Tràng An không cho phép một
thiếu nữ con nhà gia giáo được nằm trước người là. Có lẽ, đó chỉ là hình ảnh rất
dễ thương trong mộng tưởng của một chàng thi sĩ lãng mạn...
Gõ google, vào Binhchonthohay.com mới biết, ca khúc “có phải em là mùa thu
Hà Nội” của nhạc sĩ Trần Quang Lộc phổ bài thơ cùng tên của tác giả Tô Như Châu.
Nguyên văn bài thơ ấy như thế này:
"Có phải em là mùa thu Hà Nội/Tháng Tám mùa thu lá khởi vàng chưa nhỉ/Từ
độ người đi thương nhớ âm thầm./Có phải em là mùa thu Hà Nội./Tuổi phong sương
ta cũng gắng đi tìm./Có phải em mùa thu xưa.
Có bóng mùa thu thức ta lòng sang mùa./Một ngày về xuôi chân ghé Thăng
Long buồn./Có phải em là mùa thu Hà Nội./Ngày sang thu anh lót lá em nằm./Bên
trời xa sương gió bay.
Thôi thì có em đời ta hi vọng./Thôi thì có em sương khói môi mềm./Có phải
em là mùa thu Hà Nội/Nghe đâu đây lá ướt và mi xanh./Nghe đâu đây hồn Trưng
Vương sống Hát.
Có chắc mùa thu lá rơi vàng tiếng gọi./Lệ mừng gặp nhau xôn xao phím dương
cầm./Có phải em là mùa thu Hà Nội/Nghìn năm sau ta níu bóng quay về./Ôi mùa thu
của ước mơ."
Tô Như Châu, tác giả bài thơ sinh năm 1935, mất năm 200, quê ở Đà Nẵng.
Thuở trẻ, trong xóm nhỏ ông ở nằm trên bờ biển Sơn Trà, Đà Nẵng có nhiều cô gái
gốc Hà Nội di cư vào Nam. Các cô gái thật xinh xắn dễ thương là cho trái tim tác
giả mơ tưởng về một Hà Nội ngàn năm văn hiến nhưng khi đó ông đã qua xa xôi vì ở
bên kia bờ giới tuyến. Ông đã sáng tác bài thơ trong tâm trạng đó vào năm 1972.
Khi biết tác giả bài thơ và người phổ nhạc – Nhạc sĩ Trần Quang Lộc đều
chưa được đến Hà Nội, tôi mới hiểu ra: Hà Nội ở đây là Hà Nội trong trái tim
trìu mến, thiết tha của người con dân đất Việt: “Từ thuở mang gươm đi mở cõi/
Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long” (Huỳnh Văn Nghệ). Những người dân Việt ấy,
dù ở phương trời nào cũng hướng về Hà Nội, vẫn mang trong máu thịt của mình một
tình yêu với Hà Nội ngàn năm.
Một áng văn đẹp, một bài thơ hay, một giọng nói
của người Hà Nội, một món ăn mang hương vị Hà Nội... cũng bất chợt chạm vào nỗi
nhớ, thổi bùng tình yêu ấy, thăng hoa thành nhạc, thành thơ. Tôi không ngạc
nhiên nữa khi trong thơ, trong nhạc, trong tranh, trong “Thương nhớ mười hai”
tuyệt hay của Vũ Bằng... Hà Nội hiện lên lộng lẫy, kiêu sa qua bao cơn binh lửa.
Được lọc qua lăng kính của tình yêu, Hà Nội khúc xạ trong niềm thương nỗi nhớ
thành muôn mảnh, mảnh nào cũng đong đầy bịn rịn, nhớ nhung...
Đọc bài viết của ai đó, rằng chẳng có thủ đô nào trên thế giới lại hiện
diện trong văn, trong thơ, trong nhạc, trong họa...nhiều như Hà Nội. Bạn ơi, vì
Hà Nội luôn chiếm một góc thiêng liêng trong trái tim người Việt, cả những người
sống trong lòng Hà Nội và những người chưa được đến Hà Nội bao giờ. Câu thơ của
Nguyễn Phan Quế Mai đã nói hộ nhiều người tình cảm đó:
“Tôi không được sinh ra và lớn lên trong Hà Nội
Hà Nội tự sinh ra và tự lớn trong tôi”./.
(Người Hà Nội/Vietnam+)