15/11/2012
|
14:53:00
Hà Nội: Câu chuyện ít biết về cuốn sổ đỏ 400 năm tuổi
|
Cụ Trà đang kể lại lịch sử về cuốn sổ đỏ. (Nguồn: Người Hà Nội) |
Ít ai biết được giữa lòng Thủ đô Hà Nội đang tồn tại 1 cuốn sổ đỏ bằng đá với
niên đại gần 4 thế kỷ. Cuốn sổ đỏ đặc biệt này như "văn bằng chứng chỉ" bằng đá
với cái tên "Đông Tác phường Trung Tự thôn địa giới kiệt" có một không hai của
cả nước.
Nó không chỉ là minh chứng cho 1 vùng "địa linh nhân kiệt" mà còn là một
báu vật quốc gia. Sau bao biến cố thăng trầm, cuốn sổ đỏ kỳ lạ này đang được lưu
giữ tại ngôi đình Đông Tác, phường Phương Liên (Đống Đa, Hà Nội).
Thăng trầm báu vật quốc gia
Phường Phương Liên (Đống Đa, Hà Nội) trước đây thuộc phường Kim Hoa, sau
phường Đông Tác, huyện Thọ Xương, phủ Hoài Đức nổi tiếng là vùng "địa linh nhân
kiệt". Cho đến ngày nay ở đó vẫn còn gìn giữ nhiều di tích lịch sử văn hóa hàng
nghìn năm. Không những vậy đình Kim Liên được biết đến là Trấn phía Nam thành
Thăng Long (trong tứ trấn Thăng Long). Và chính nơi đây vẫn còn đang lưu giữ
cuốn sách cổ bằng đá. Cuốn sách mà người dân gọi là "cuốn sổ đỏ" này đã tồn tại
cùng với thời gian gần 4 thế kỷ.
Cụ Tế Trưởng Ban bảo vệ di tích đình Trung Tự đưa chúng tôi tận mắt chiêm
ngưỡng "cuốn sổ đỏ" kỳ lạ này. Thực chất "cuốn sổ đỏ" này là 2 tấm đá úp mặt vào
nhau. Cả 2 đều hình vuông, vát cạnh giống như hình con dấu triện mỗi cạnh dài
76cm. Tấm dưới dày 50cm, tấm trên dày 18cm. Tấm dưới như thân hộp còn tấm trên
như nắp hộp đậy lên. Do biến cố lịch sử và thời gian nên "cuốn sổ đỏ" này có
nhiều vết sứt mẻ, nứt rạn ngang dọc.
Để tìm hiểu nội dung, lịch sử và những thăng trầm của "cuốn sổ đỏ" này
chúng tôi được người dân chỉ tới cụ Nguyễn Trà - người có duyên và nặng lòng
nhất với cuốn sổ đỏ bằng đá này. Đã ngoài 80 tuổi nhưng cụ vẫn còn khá minh mẫn.
Chẳng thế giấu được niềm vui của cụ khi có người hỏi đến chuyện cuốn "sổ đá". Cụ
bảo: "Các anh hỏi về cuốn sổ đá vào đây là đúng địa chỉ rồi đó. Bây giờ có mấy
ai muốn tìm hiểu những gì thuộc về lịch sử xa xưa đâu. Từ ngày về hưu tôi trực
tiếp làm công việc bảo quản cũng như nghiên cứu cuốn sổ đỏ này chưa thấy ai hỏi
tới nó cả".
Quả đúng như những gì chúng tôi kỳ vọng, cụ Trà thuộc từng chữ trong "cuốn
sổ đỏ" như lòng bàn tay. Cụ chia sẻ: "Thực ra đây như một cuốn sách, chỉ 2 trang
nhưng có biết bao câu chuyên về nó. Không những vậy, cuốn sách cổ này đã chứng
tỏ một điều: đây là vùng đất sản sinh ra rất nhiều nhân tài, nhiều học sĩ cho
nước nhà".
Cụ Trà cho biết, hai mặt đá hình dấu triện, mặt dưới có 700 chữ, mặt trên
có 600 chữ úp vào nhau, được khắc tạc bằng chữ nho và được khắc rất tinh tế. Đây
là văn bia, là chứng tích minh chứng cho mảnh đất này được vua phong cho tổ tiên
người làng Trung Tự để ghi nhận công lao của các bậc tiên hiền. Mặt đá ghi lại
toàn bộ quá trình từ khi đòi đất đến khi được quan trên phán quyết trả lại đất
cho dân làng Trung Tự.
Nội dung mặt đá dưới gồm 2 phần chính. Phần thứ nhất đại ý là tờ trình của
dân làng Trung Tự gửi quan trên: "... Đất thổ cư của bản thôn, phía Đông giáp
Kim Hoa phường, Tây giáp Kiều Thượng, Kiều Hạ, Bắc giáp xã Đinh Huân, Nam gần
hào ngoài thành Đại La…
Trước đây đất đai bị quân phòng chiếm, chỉ còn khu đình chùa và một vài
nhà dân. Tuy người dân phải dời đi nơi khác, nhưng những việc hộ tịch, thi cử,
tuyển mộ thì dân làng vẫn theo lệ cũ… Kính mong quan trên giúp cho dân chúng tôi
trở về làng an cư phục nghiệp".
Phần thứ hai là tờ trình của quan Phụng Sai, đề ngày 10 tháng 6 năm Quý
Sửu, đời vua Lê Gia Tông, niên hiệu Dương Đức 2 (năm 1673) tóm tắt như sau: "Các
thửa đất tên là đất của tổ tiên dân làng Trung Tự được phong từ trước, gồm cả
đầm, ao đã tra xét… bị quân phòng chiếm rồi sau quân doanh làm nhà ở… Kính xin
chiếu chỉ quan trên chuẩn trả lại đất đai cho dân làng trở về an cư phục nghiệp,
không được phiêu cư sang huyện Quảng Đức".
Nói đến đây cụ Nguyễn Trà cười thâm thúy: "Sở dĩ hai mặt đá có chữ được ốp
vào nhau mục đích để tránh nắng mưa và tránh thời gian làm xói mòn. Hơn nữa cuốn
sổ này hình dấu triện là hình ảnh tượng trưng cho pháp lý, cho sự công nhận của
triều đình với nội dung được tạc bên trong".
Lưu truyền cuộc ẩu đả giữa hai làng
Cuối thế kỷ thứ 16 người dân làng Trung Tự phải rời nơi "chôn nhau cắt
rốn", bỏ nhà cửa, lang bạt dìu dắt nhau nương náu nhiều nơi vì Thái phó Việt
Quận Công đã chiếm đất của nhân dân làm quân phòng, sau đó làm quân doanh. Người
làng Trung Tự đã đi kiện đòi đất. Sau cả chục năm sống cảnh "ăn nhờ ở đậu", nỗi
khốn cùng của người dân Trung Tự đã thấu đến tai nhà Vua. Và đến năm 1673, dân
làng Trung Tự được quay trở lại và gây dựng lại cơ đồ.
Chưa dừng lại ở đó, 4 năm sau dân làng Trung Tự lại bị làng khác khiếu
kiện và cho rằng họ đã bị lấn đất. May mắn lúc đó, các quan xã đã xác định việc
tố cáo này là không đúng sự thực. Chính từ đây, "cuốn sổ đỏ" kia được hình
thành. Vua cho dựng tấm bia đá như một giấy chứng nhận quyền sử dụng ruộng đất,
vừa như một cột mốc giới phân định rõ ranh giới giữa hai làng để tránh sự tranh
chấp có thể xảy ra sau này.
"Cuốn sổ đỏ" đặc biệt của làng Trung Tự ra đời cũng trong một hoàn cảnh
đặc biệt. Đã có thời gian "sổ đỏ" này đã rơi vào quên lãng. Từ năm 1954 đến 1980
nó bị hắt hủi nằm như vật vô tri, tủi phận bên lề đường làng. Và cho đến năm
1982, cụ Bùi Huy Lân cùng với một số thanh niên đã bê hai tảng đá này vào trong
sân đình và đặt ngay cạnh gốc thị trăm tuổi.
Cuốn gia phả họ Nguyễn làng Trung Tự ghi lại toàn bộ lịch sử cũng như
những thăng trầm của cuốn sổ đỏ 400 năm.
Cụ Trà kể lại: "đến mãi năm 2000, nhân dịp kỷ niệm 990 năm Thăng Long - Hà
Nội, dòng họ Nguyễn chúng tôi đã góp công, của xây dựng cuốn thư và 2 nhà bia
rồi "rước" cuốn "sổ đỏ" vào trong sân đình để gìn giữ cho muôn đời sau". Đã gần
400 năm trôi qua, những nét chữ vẫn còn nguyên vẹn và sắc nét.
Gần 4 thế kỷ trôi qua, sự nghiệt ngã của thời gian đủ để phá hủy bất cứ
một thư tịch cổ nào, nhưng với văn bia đá này nó sẽ còn mãi, trường tồn. Nó là
niềm tự hào của dân làng Trung Tự, là vật báu quốc gia.
Nói đến đây cụ Trà cười vui vẻ: "Thế mới biết việc tranh chấp đất đai
không phải bây giờ mới có. Có lẽ đây là "cuốn sổ đỏ" đầu tiên của nước ta! Chúng
tôi sẽ cố gắng bảo vệ và gìn giữ nó như một báu vật để con cháu đời sau biết
được một dấu mốc lịch sử của địa phương"./.
(Người Hà Nội/Vietnam+)