Nói đến đô thị, người ta hình dung ra cảnh bán, mua tấp nập với những chợ búa
đông đúc (“Búa” tức là “Bộ” – “Bộ Đầu” một tên cổ Hán, có nghĩa là Bến. Chợ trên
đất Thăng Long xưa gần bến sông nên có từ ghép “Búa” – chợ búa).
Chỉ tính riêng nội thành từ thế kỷ 17-18 đã có vài chục chợ, trong đó có nhiều
chợ nổi tiếng, từng đi vào văn học dân gian như: “Bán mít chợ Đông, bán hồng chợ
Tây/ Bán mây chợ Huyện/ Bán quyến chợ Đào…”.
Chợ Đồng Xuân
Chợ Đông (tức chợ Cầu Đông, khu vực giáp Ngõ Gạch, Hàng Đường), chợ Tây (khu vực
bến xe Kim Mã), chợ Huyện (khu vực Nhà Thờ Lớn), chợ Đào (chính là phố Hàng
Đào). Rồi đến các chợ Cửa Nam (ngã tư Cửa Nam), chợ Đình Ngang, chợ Ông Nước (Ô
Đống Mác), chợ Mới (Hàng Chiếu), chợ Đông Thành (Hàng Vải – Hàng Gà), chợ Yên
Thọ (Ô Cầu Dền), chợ Yên Thái (Bưởi)… Đứng đầu các chợ này cả về địa thế lẫn
tiếng tăm là chợ Đồng Xuân. Có câu: “Vui nhất là chợ Đồng Xuân/ Kẻ buôn, người
bán xa, gần thảnh thơi…”.
Ngoài chợ, Hà Nội còn có 36 phố phường tập trung sản xuất và bán một mặt hàng
Ngoài các chợ trên, đô thành Hà Nội còn có ba mươi sáu phố phường tập trung sản
xuất và bán một mặt hàng. Chẳng hạn: “Hàng Thùng, Hàng Bút, Hàng Tre/ Hàng Vôi,
Hàng Giấy, Hàng The, Hàng Gà…”.
Ngoài chợ, phố nghề còn có khá đông chợ lưu động, không tên (chợ cóc ngày nay),
đó là những người buôn bán rong, vặt vãnh… Họ tụ họp bán hàng ở tất cả mọi nơi
có người qua lại. Người bán hàng không cần lều che, ghế ngồi. Hàng hóa để trong
một vuông vải hay cái thúng, cái rổ, cái mẹt… thậm chí bày ngay trên mặt đất,
nền gạch…
Chợ thường được lập lên ở những nơi giao thông thuận tiện và họp luân phiên định
kỳ.
Chợ thường được lập nên ở những nơi công cộng, ở các cửa ô, cửa thành, bến sông,
bờ kênh… nơi thuận tiện giao thông đi lại, để trao đổi mua bán. Thời gian họp
chợ, văn bản chính thức đầu tiên của Nhà nước phong kiến ghi trong sách “Hồng
Đức thiên chính thư” đã nêu ra nguyên tắc: chợ họp xen kẽ và luân phiên định kỳ,
tránh trùng nhau, nhưng không ghi rõ thời gian cách nhau giữa hai phiên chợ bao
nhiêu ngày. Cuối thế kỷ XIX, mới có ý kiến cho rằng, chợ trên đất Thăng Long –
Hà Nội cứ 5 hoặc 6 ngày họp một phiên (trừ ngày Hội hoặc Tết có thể mở thêm
phiên). Chợ họp từ 7 giờ sáng đến 2 hoặc 5 giờ chiều. Các mặt hàng buôn bán ở
chợ rất phong phú, hấp dẫn, giá rẻ như: gạo, cá (cá tươi. cá mắm, cá khô), thịt
lợn, thịt trâu, thịt bò (có cả thịt chó, thịt mèo…), rau tươi, quả chín, tơ lụa,
đồ trang sức, kim hồn, đồ đòng, đồ sứ, giày dép, quần áo, cày cuốc, các loại vải
vóc thông dụng mà người dân quen gọi là hàng tấm, các loại thuốc chữa bệnh thông
thường (thuốc men, thuốc bắc), giấy viết các loại… Những mặt hàng này đều do
làng, xã quanh kinh thành trồng cấy, sản xuất đem vào thành đổi chác, bán mua.
Trong số này có gạo tẻ nhiều nhất, không những đủ cung cấp cho Thăng Long mà còn
có khả năng bán cho nhiều nơi trong vùng…
Chợ ở nông thôn đặt dưới quyền kiểm soát của địa phương nơi đặt chợ. Ở nội thành
thuộc quyền quản lý của Nhà nước…
Nhằm bảo đảm an ninh – trật tự cho chợ búa, luật pháp Nhà nước ngăn cấm việc
người trông coi cho dân buôn bán làm sai quy định như buôn gian, bán dối, nhũng
nhiễu, đầu cơ tích trữ. Người làm sai (kể cả viên chức Nhà nước) đều bị trừng
trị nghiêm khắc từ đánh trượng, bêu danh ở chợ, phạt tiền, nghiêm trọng có thể
bị xử tội theo Luật Hình sự…