19/11/2012
|
10:01:00
Phẩm chất người Hà Nội từ góc độ văn hóa - lịch sử
Nói đến phẩm chất con người, cũng tức là nói đến tính cách, nhân cách, nói đến
lối sống, nếp sống của con người trong một cộng đồng xã hội. Thủ đô Hà Nội của
chúng ta ngày nay đã có bề dày ngót một ngàn năm lịch sử, ngay từ thuở định đô
Thăng Long, thì cũng là lúc cư dân của bốn phương không ngừng đến làm ăn sinh
sống đồng thời du nhập vào vùng đất trung tâm này những lối sống, những tập tục
ở quê hương mình.
Tuy nhiên, trong quá trình đô thị hoá, lối sống kẻ quê tất yếu
sẽ dần dần bị chuyển đổi để trở thành lối sống kinh kỳ - Kẻ Chợ. Dẫu còn có
những mặt này mặt khác chưa thật hoàn hảo, song đời sống và lối sống nơi Kẻ Chợ
vẫn là niềm mơ ước của nhiều người:
Giàu chốn quê không bằng ngồi lê Kẻ Chợ
Để lý giải vấn đề lý thú ấy chúng ta không thể không ngược dòng tìm hiểu
cái cơ tầng văn hoá - lịch sử của vùng đất trung tâm này.
Trước hết, môi trường sinh thái nhân văn cũng như môi trường văn hoá Thăng
Long - Hà Nội với những điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt chẳng những là nơi
hội tụ nhân tài mà còn là nơi đào luyện nhân tài đông đảo nhất trong cả nước.
Có thể nói, hầu hết các danh nhân văn hoá - lịch sử, hầu hết các nghệ
nhân, nghệ sĩ tài ba từ xưa đến nay, bất kể quê gốc ở đâu, chỉ trở thành những
nhân vật có tầm cỡ quốc gia khi đã sống và hoạt động ở Thăng Long - Hà Nội.
Lý Công Uẩn quê ở Kinh Bắc đã trở thành danh nhân văn hoá - lịch sử khi
ông ban Chiếu dời đô và quyết định chọn Thăng Long làm nơi định đô để "tính kế
muôn đời cho con cháu mai sau".
Lê Lợi, một hào trưởng ở đất Lam Sơn, chỉ trở thành danh nhân lịch sử lẫy
lừng khi ông dựng đại bản doanh bên bến Bồ Đề, và tiếng nhạc ngựa "nhong nhong"
của ông vang lừng trong chiến dịch giải phóng Đông Đô.
Nhân vật Nguyễn Huệ cũng vậy, nếu không có sự nghiệp giải phóng Thăng Long
với xuân lửa Đống Đa thì có lẽ lịch sử cũng chỉ biết đến ông như một người anh
hùng áo vải ở ấp Tây Sơn mà thôi...
Điều này với các danh nhân văn hoá lại càng rõ. Nguyễn Du quê gốc ở Nghệ
Tĩnh, nhưng ông sinh ra và lớn lên ở kinh thành Thăng Long. Mặc dầu ông có tiếp
thu ít nhiều truyền thống văn hoá ở quê cha Nghệ Tĩnh, ở quê mẹ Kinh Bắc, ở quê
vợ Thái Bình, nhưng những sinh hoạt văn hoá phong phú, đa dạng ở Thăng Long hoa
lệ, cùng với tiếng nói phổ thông tinh tế, uyển chuyển, thanh tao, mượt mà của
vùng trung tâm đất nước là nhân tố chính, có tác dụng quyết định đến việc hình
thành tài năng và tác phẩm Truyện Kiều nổi tiếng của ông, nhờ đó đưa ông lên vị
thế đại thi hào dân tộc và danh nhân văn hoá thế giới.
Cũng như thế, một Nguyễn Trãi, một Hồ Xuân Hương, một Nguyễn Văn Siêu, một
Cao Bá Quát... đều là những hạt giống tốt đã nảy hoa kết trái từ mảnh đất Thăng
Long đô hội. Nếu không có mảnh đất kinh thành bồi đắp thì sao Khuê làm sao có
thể "ngời sáng" và cô gái bình dân họ Hồ làm sao có thể trở thành "Bà chúa thơ
Nôm". Nếu không có môi trường đô thị Thăng Long thì làm sao chàng tài tử đa cùng
họ Cao và ông thầy ngồi trên chiếc chõng cót két có thể trở thành "thần Siêu,
thánh Quát" lừng danh.
Như thế, cái công nuôi dưỡng, nhào nặn của chiếc nôi văn hoá Thăng Long
đối với các nhân tài văn hoá của dân tộc là đặc điểm nổi bật, đặc sắc mà không
một vùng văn hoá địa phương nào có thể có được.
Điều đặc sắc nữa là các danh nhân Thăng Long - Hà Nội không chỉ tài ba mà
còn đa tài, đa nghệ. Do sống ở nơi hội tụ tinh hoa văn hoá bốn phương, các hình
thái văn hoá mà con người nơi đây được tiếp xúc hằng ngày cũng phong phú và hoàn
mỹ hoàn thiện hơn các nơi khác. Vì thế, nhân tài của Thăng Long - Hà Nội bao giờ
cũng đượm vẻ tài hoa, tinh tế, và thường là những con người dường như được cô
đúc nhiều phẩm chất cao đẹp về nhân cách, đa dạng về tài nghệ, hiếm thấy ở danh
nhân các địa phương khác.
Trần Nhật Duật vừa là vị tướng tài ba, vừa là nhà văn học, vừa là nhà
ngoại giao, vừa giỏi ca múa nhạc, vừa thông thạo nhiều ngôn ngữ nước ngoài và
ngôn ngữ các dân tộc thiểu số trong nước. Ông thường đến thôn Đà La (Quán La sau
này) vùng Kẻ Bưởi để chuyện trò với các tù binh người Chăm và đến chùa Tường Phù
để đàm đạo với các sư người Tống. Khi tiếp sứ Nguyên Mông, ông trực tiếp trao
đổi không cần người thông dịch. Trịnh Trọng Tử, cũng người thời Trần, là nhân
vật nổi tiếng "nhiều tài năng trí xảo", giỏi sáng tác nhạc, giỏi huấn luyện
ngựa, hiểu cả nghề bốc thuốc chữa bệnh, đồng thời còn nổi tiếng là danh thủ đánh
cờ người. Nguyễn Trãi hầu như cũng là con người toàn năng, toàn tài, lĩnh vực
nào cũng giỏi, văn võ song toàn, giỏi cả văn cả thơ, giỏi cả các khoa lịch sử
địa lý, am hiểu sâu sắc nguyên lý âm nhạc, vũ đạo và cả nghệ thuật tạo hình. Sử
cũ còn ghi ông là người sáng tác vũ khúc Bình Ngô phá trận nổi tiếng cho nhân
dân hát múa mừng ngày giải phóng Đông Đô. Nguyễn Gia Thiều là người hay cả cầm,
kỳ, thi, họa. Nhiều cung điện lộng lẫy và chùa chiền nổi tiếng ở Thăng Long thời
Lê - Trịnh đều do một tay ông thiết kế và chỉ đạo thi công. Nhiều bài ca, điệu
nhạc phổ biến rộng rãi đương thời cũng do ông sáng tác. Nguyễn Du là nhà thơ dân
tộc thiên tài thì mọi người đều biết, song hiếm người biết rằng ông còn là người
am tường nghiệp cầm ca, và cũng là người giỏi võ nghệ và sở trường về môn đánh
kiếm.
Về nhân tài y học thì có Phạm Bản, ông ngoại Hồ Quý Ly, gia đình đời đời
làm thuốc ở kinh đô Thăng Long. Thầy thuốc họ Phạm không chỉ nổi tiếng về chữa
bệnh mà còn nổi tiếng ở đạo đức nghề nghiệp "lương y như từ mẫu". Nơi ở của ông
cũng là nơi ông cưu mang những người nghèo đến chữa bệnh và ăn ở tại chỗ. Tương
truyền, một hôm có người đến gõ cửa cầu cứu ông đi chữa cho một phụ nữ băng
huyết đang nguy kịch, ông vội vã đi ngay. Ra đến cửa, gặp quan hầu của nhà vua
triệu vào cung, thăm bệnh cho một quý phi bị sốt rét, ông đã từ chối để đi cứu
người đàn bà băng huyết trước. Nhờ vậy, người đàn bà được cứu sống. Sau đó, ông
vào cung xin chịu tội. Vua Trần Anh Tông giận lắm, nhưng sau khì nghe lương y
Phạm Bản tâu trình tình cảnh nguy kịch của người đàn bà băng huyết, thì nhà vua
lại vui vẻ phán rằng: "Nhà ngươi thật đúng là lương y, đã giỏi nghề lại có lòng
nhân, cứu giúp cho con đỏ của ta, thật xứng đáng với sự trông cậy của ta." Sau
con cháu Phạm Bản đều nổi danh về nghề thuốc ở kinh thành.
Ở đây chúng ta cần thấy một đặc điểm bao trùm ở các danh nhân, các nhân
tài Thăng Long - đó là mỗi người dầu có những phẩm chất, tính cách ưu tú khác
nhau, song đều có một cái chung là mang đậm dấu ấn đô thành - Kẻ Chợ. Cái dấu ấn
Kẻ Chợ ấy chính là tổng hoà của những gì tinh tế, nhuần nhị, thanh lịch, hào
hoa, mỹ lệ, xảo diệu... mà nhân vật ở các trấn ngoài Thăng Long, ở các miền biên
viễn hẻo lánh, dù tài năng mấy cũng vẫn ít nhiều còn để lộ cái vẻ quê kiểng, mộc
mạc. Một thí dụ hết sức thú vị là câu chuyện về Trương Hán Siêu đời Trần. Chuyện
kể rằng Trương Hán Siêu quê ở Yên Khánh (Ninh Bình) vốn nổi tiếng đá cầu giỏi ở
địa phương, thế mà khi ra Thăng Long làm môn khách của Trần Hưng Đạo, còn bị
người kinh thành chê là "thôn cầu cước" nghĩa là "chân đá cầu thôn/chân đá cầu
nhà quê. Ngay cả trong giới văn nghệ sĩ ở Kẻ Chợ cũng vậy. Câu thơ Nguyễn Gia
Thiều, câu thơ Bà huyện Thanh Quan đài các, quý phái, sang trọng khác hẳn thơ
"kẻ quê" đã đành. Nhưng ngay như những câu thơ đậm chất dân dã của nữ sĩ họ Hồ
cũng vẫn cứ toát lên cái vẻ tài tình, xảo diệu, cái vẻ đẹp sắc sảo, cái phong
cách tài tử, tài hoa của người Kẻ Chợ, mà không một tài thơ địa phương nào có
thể trộn lẫn được. Thật khó mà nói rõ được cái chất đô thành - Kẻ Chợ này. Phải
chăng "thợ thầy Kẻ Chợ" cũng giống như "Đường Hoè" (Hoè Nhai) "Đường Liễu" (Liễu
Giai) cũng như "bên trúc Nghi Tàm", như "rừng bàng Yên Thái", như "đào Nhật
Tân", như "bóng nước Hồ Gươm", như "mặt gương Tây Hồ"... có cái gì đó rất riêng
tây, rất khác biệt, không hề giống với bất kỳ nhân vật ở đâu khác.
Trải qua trường kỳ lịch sử, những phẩm chất ưu tú của con người Thăng Long
- Kẻ Chợ được kết tinh trong các gương mặt danh nhân, nhân tài, dường như đã trở
thành những tính cách, những lối sống mà mọi người dân ở kinh thành đều noi
theo, và dân dần trở thành nếp sống của cả cộng đồng, trong mọi hoạt động của
đời sống đô thị từ ăn mặc, vui chơi đến các quan hệ ứng xử giao tiếp xã hội, tạo
thành những lề thói tập tục cao đẹp, trang nhã riêng có của môi trường văn hoá
Kẻ Chợ. Chỉ xem xét một vài tập tục tiêu biểu về ăn, về mặc, về thú chơi hoa
cảnh của người Hà Nội cũng đủ thấy được nét văn hoá riêng, hào hoa, thanh lịch
không đâu bằng. Thuở trước phụ nữ Hà Nội cũng như nhiều nơi khác, khi đi đâu
thường đội nón ba tầm, thế nhưng cái nón của các cô gái Hà Nội lại được trang
trí thêm cho đẹp, cho duyên:
Hà Nội thì kết quai tua
Có hai con bướm đậu vừa xung quanh
Tứ bề nghiêng nón nghiêng vành
Ở giữa con bướm là hình ông trăng...
Nói về ăn thì từ lâu người Hà Nội đã có tiếng là sành ăn. Chẳng hạn cốm
thì nhiều nơi làm được, ngay ở Hà Nội cũng có cốm Lủ, cốm Vòng, nhưng cốm Vòng
của Hà Nội thì đã trở thành đặc sản không nơi nào sánh bằng. Có thể kể thêm một
thí dụ khác - món chả cá. Đây cũng là một đặc sản của Hà Nội. Khoảng cuối thế kỷ
XIX gia đình họ Đoàn ở phố Hằng Sơn sáng tạo ra món ăn này với biển hiệu "Lã
Vọng câu cá". Món ăn nhanh chóng được dân Hà thành hưởng ứng và nổi tiếng khắp
nơi. Điều thú vị là sức hấp dẫn mạnh mẽ của món chả cá Lã Vọng đã xoá nhoà cái
tên phố Hằng Sơn để trở thành tên phố Chả Cá như ngày nay.
Về thú chơi hoa, chơi cây cảnh, Thăng Long - Hà Nội đã có truyền thống từ
lâu đời. Theo văn bia chùa Đọi (1121), thì ngay từ khi định đô Thăng Long, nhà
Lý đã tạo dựng một vườn hoa lớn ở phía Tây cấm thành, gần chùa Một Cột. Qua thơ
văn và sử liệu thì các đời Trần - Lê, kinh đô vẫn tiếp tục tạo lập nhiều vườn
hoa đẹp và những người thi đỗ tiến sĩ đều được nhà vua cho đi ngắm hoa ở các
vườn trong kinh thành. Thơ nôm Hoàng Sĩ Khải thế kỉ XVI còn có câu:
Trường An phong cảnh hữu tình
Có đường dong ngựa, có thành xem hoa
Theo tác giả Hoàng Đạo Thúy (Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội, 1969) thì ngay
từ thời Lý, làng Ngọc Hà đã là một trại hoa nổi tiếng của kinh thành. Thời Lê, ở
đây còn chợ Hoàng Hoa chuyên bán hoa cúc vàng. Thời Lý - Trần - Lê, các
làng/trại trồng hoa tiếp tục phát triển, trong đó nổi tiếng nhất là phường Yên
Hoa (còn gọi Yên Quang, thời Nguyên đổi gọi Yên Phụ) và cánh đồng bông (hoa) ở
Dịch Vọng (Từ Liêm), vườn hoa đào ở Nhật Chiêu... Ca dao cổ còn lưu truyền:
Nước Hồ Tây biết bao giờ cạn
Như vườn đào biết vạn nào hoa
Phiên rằm chợ chính Yên Quang
Yêu hoa anh đợi hoa nàng mới mua...
Thời cuối Lê, tục chơi hoa cảnh phát triển sôi động như một thú chơi mà cả
đô thành đều ham thích. Sách Vũ trung tuỳ bút của Phạm Đình Hổ còn cho biết:
"Khi ấy phàm bao nhiêu những loài trân cầm dị thú, cổ mộc quái thạch, và chậu
hoa cây cảnh ở chốn dân gian đều bị chúa Trịnh thu về phủ không thiếu một thứ
gì. Chúa còn bắt chuyển cả một cây đa cổ thụ từ bên Kinh Bắc đem về phủ..." Bấy
giờ nhà Phạm Đình Hổ ở phường Hà Khẩu (Hàng Buồm), trước nhà tiền đường trồng
một cây lê cao vài mươi trượng, lúc nở hoa trắng xoá thơm lừng; trước nhà trung
đường trồng hai cây lựu trắng và lựu đỏ, lúc ra hoa kết quả trông rất đẹp... Vũ
trung tuỳ bút của Phạm Đình Hổ cũng từng bình luận rất nhiều về thú chơi hoa
cảnh và nhất là cách trồng hoa lan các loại. Nhiều nhà dân Thăng Long thích chơi
tùng và trúc. Ca dao cổ Hà Nội còn có câu:
Ai chơi ta cũng chơi cùng
Chơi trúc quân tử chơi tùng trượng phu
Về nếp sống và thế ứng xử của người Hà Nội.
Nói đến nếp sống Hà Nội có lẽ chúng ta không thể không tìm hiểu sơ qua về
cơ cấu của cư dân Hà Nội. Theo sử cũ thì thời Lý - Trần, kinh thành Thăng Long
có 61 phường, trong đó có cả người nước ngoài, hàng ngàn người Tống chống
Nguyên, tới cư trú, người Hoa kiều, người Chà Và, người Hồi Hột, người Trung Á,
người Ấn Độ... tới làm ăn buôn bán và truyền giáo. Theo Dư địa chí của Nguyễn
Trãi (đầu thế kỉ XV) thì kinh đô Thăng Long có 36 phường và 12 nghề thủ công:
"Phường Tàng Kiếm làm kiệu, áo giáp, đồ đài, mâm, võng, gấm, chồi, dù lọng;
phường Yên Thái làm giấy; phường Thụy Chương và Nghi Tàm dệt vải và lụa; phường
Hà Tân nung vôi; phường Hàng Đào nhuộm điều; phường Tả Nhất làm quạt...” Về sau,
khi việc buôn bán ở kinh thành phát triển thì thợ thủ công khắp nơi kẻo về lập
nghiệp càng đông đúc nhộn nhịp hơn. Căn cứ vào văn bia ở các ngôi đình ở Hà Nội
cho biết, thì từ cuối thế kỉ XVI đến cuối thế kỷ XIX, Thăng Long - Hà Nội đã thu
hút khá nhiều thợ thủ công và người buôn bán từ các trấn lân cận tới làm ăn.
Chẳng hạn, bia đình Hoa Lộc phố Hàng Đào thuật lại việc xây dựng ngôi đình do
bốn họ ở Đan Loan, huyện Bình Giang, Hải Dương lên kinh đô lập nghiệp, làm nghề
nhuộm và buôn bán. Nhiều đình khác thờ tổ sư các nghề đã cho thấy sự phong phú
của các nghề thủ công ở kinh thành. Như đình Hài Tượng ở ngõ Hài Tượng (ngõ Thợ
Giầy) thờ tổ sư nghề thuộc da và đóng giầy, vốn của các làng Chấm (Trúc Lâm,
Phong Lâm và Văn Lâm, Hưng Yên). Đình Xuân Phiến ở phố Hàng Quạt thờ tổ sư nghề
làm quạt của dân Đào Xá Huệ, Hưng Yên. Đình Tú Thị (còn gọi đình Chợ Thêu) ở ngõ
Tạm Thương của dân làng Quất Động (Thường Tín, Hà Đông). Đình thợ tiện ở phố
Hàng Hành thờ tổ sư nghề tiện của dân làng Nhị Khê, Hà Đông... Như thế là có cả
làng nghề và phố nghề, phố nghề và làng nghề luôn luôn gắn bó với nhau chặt chẽ,
mà mỗi phố nghề là đại diện, là bộ mặt của một làng nghề. Có buôn bán ắt có đua
tranh, đua tài đua khéo: Hà Nội ba sáu phố phường / Hàng Bạc, Hàng Đường, Hàng
Muối trắng tinh... Và chính nhờ môi trường kinh thành - Kẻ Chợ quy tụ và đào
luyện nhân tài nên sản phẩm thủ công ở Kẻ Chợ bao giờ cũng là mặt hàng nổi trội
hơn các vùng khác, được nhân dân cả nước ngợi ca về độ tinh xảo cũng như về mặt
thẩm mỹ, khéo léo:
Ngát thơm hoa sói hoa nhài
Khôn khéo thợ thầy Kẻ Chợ
Thợ khéo đổ về Kẻ Chợ đã tạo nên cái quang cảnh buôn bán ăn chơi đông vui
tấp nập ở Hà Nội. Cuối thế kỷ XVII, một nhà buôn quốc tịch Anh, mẹ là người
Việt, sinh trưởng và có cửa hiệu ở Thăng Long, là Samuel Baron cho biết: "Kẻ Chợ
với diện tích của nó, có thể so sánh với nhiều đô thị châu Á. Nó lại còn to hơn
nhiều đô thị về mặt dân số. Đặc biệt đông là ngày mồng một và ngày rằm âm lịch
là những ngày phiên chợ. Nhân dân các làng lân cận đem hàng hoá đổ về đông không
thể tưởng tượng được. Nhiều phố rộng rãi khang trang mà khi ấy cũng chật ních
người, đôi khi lách chân vào trong đám đông chỉ bước dấn được chừng trăm bước
trong nửa giờ cũng đã thấy sung sướng lắm rồi" (S.Baron: Description du royaume
de Tongquin/ Miêu tả vương quốc Đông Kinh, trong Revue Indochine, số 9,
l0/1914). Hà Nội thời này cũng tập trung nhiều hiệu buôn to của người nước ngoài
ở phường Hà Khẩu (Hàng Buồm). Ở đây có chợ Bạch Mã nổi tiếng đã đi vào thơ ca
trong ngoài nước. Cao lâu, tửu điếm mọc lên nhan nhản, đêm đêm các tay phú
thương nối đuôi nhau vào ra lũ lượt, rượu chè suốt buổi, đàn hát thâu canh.
Chính cái cơ cấu cư dân hết sức đa dạng, có vương công quý tộc, có danh
nhân văn hoá - lịch sử, có các nghệ sĩ tài danh, có các loại thợ thuyền, thương
nhân khôn khéo, có cả người nước ngoài, cái cơ cấu phức hợp như thế của Kẻ Chợ
đã tạo nên cái cơ tầng văn hoá ứng xử của Hà Nội, nếp sống Hà Nội. Theo ghi chép
của Vũ trang tuỳ bút thì vào đời Lê Cảnh Hưng, lúc Phạm Đình Hổ còn niên thiếu,
phong tục ở Thăng Long rất thuần hậu, mọi người giao tiếp hằng ngày luôn giữ
thói khiêm nhường, nếu ai có điều gì xằng bậy thì chỉ sợ người ta biết mà chê
cười. Ông còn cho biết, nghe các bậc tiền bối kể lại, thì các đời Long Đức, Vĩnh
Hựu trở về trước phong tục ở kinh thành còn hồn hậu hơn nhiều. Ông cũng cho
biết, trong sinh hoạt hàng ngày người kinh thành luôn giữ nếp cần kiệm, tránh ăn
tiêu xa xỉ. Khi có khách hoặc bạn bè đến chơi nhà, nếu không phải là bậc khách
quý hay vào dịp đại lễ thì không giết gà vịt. Khi nào có khách mà thết rượu thì
chỉ dùng cái chén nhỏ bằng hạt mít, mà uống vài chén rồi thôi ngay, nếu mời uống
quá thì ai cũng chê là say đắm.
Trong tập bút ký Tràng An thanh lịch (Báo Nhân dân các số ra ngày 2, 3, 5
tháng 10 năm 1994), nhà nghiên cứu văn hoá Hoàng Đạo Thúy, người đã sống lâu năm
trong thời Hà Nội cũ, giải thích hai từ thanh lịch như sau: người Tràng An là
người kinh kỳ "thanh", không tục, không thô lỗ, lại "lịch", lịch thiệp, lịch sự.
Thanh lịch là cái phong cách sống Hà Nội. Theo ông, ở các tỉnh mà có khách Hà
Nội tới, thì bà chủ nhà hay khoe với hàng xóm: nhà tôi có khách Hà Nội. Bà con
quý lắm, nhìn khách, xem lời ăn tiếng nói, đến cách ăn mặc. Tác giả cũng cho
biết, ở Hà Nội thời trước, phường có tiếng tốt được thưởng bảng vàng có bốn chữ
"thuần phong mỹ tục". Cái thuần phong mỹ lục ấy xây dựng từ người lớn, trẻ con
trong phố. Phố Hàng Gai có liếng là lịch sự. Phố Cầu Đông có tiếng là khôn
ngoan. Rồi tác giả dẫn chứng nhiều sự việc cụ thể để chứng minh cách ứng xử
thanh lịch của người Hà Nội, trong ứng xử, giao tiếp, ăn nói hằng ngày. Theo tác
giả, người Hà Nội rất chú trọng lời ăn tiếng nói, không nói tục, bảo rằng nói
tục thì ngượng mồm thế nào ấy.
Nét thanh lịch của người Hà Nội thể hiện cả trong việc mời chào. Khách đến
nhà, chủ nhà không bao giờ cởi trần mà tiếp, nếu đầu không có khăn thì quay vào
chít khăn đã rồi mới ra đón khách. Khi mọi khách uống trà, phải mời khách "tống
khẩu” (xúc miệng) trước rồi mới rót ra chén tống, rồi lại từ chén tống rót ra
chén quân để lọc cặn chè. Nước chè phải trong xanh, không đặc xít. Khách cất
chén lên thế nào cũng phải đưa nhẹ trôn chén vào mép đĩa, để không bị nước nhỏ
vào áo. Thanh lịch cũng ở chỗ ăn mặc. Ra đường không mặc cẩu thả để tỏ ý tôn
trọng người đi đường, lại sao cho không hở hang. Chỉ có người đang làm nhọc là
được ở trần thôi. Áo quần không cần sang trọng nhưng phải chỉnh tề. Tác giả cũng
cho biết rằng, đương nhiên ở Kẻ Chợ cũng có những người không thanh lịch, nhưng
nói chung thì cái thanh lịch của kinh kỳ vẫn được mọi người quý trọng. Những
người mới đến ở kinh kỳ vẫn thấy cái này là cái phải có trước cả, mới thành
người Hà Nội.
Như vậy, qua các mẫu hình văn hoá, các gương mặt danh nhân, các bách nghệ
tổ sư, và qua những ghi chép trong các thiên bút ký về phong tục kinh thành thời
trung đại cũng như thời cận đại, chúng ta nhận thấy tính cách con người Hà Nội
xưa thật là thuần hậu, trang nhã và lịch sự. Họ là những con người ứng xử văn
minh, thanh lịch. Họ cũng là những con người hào hoa, phong nhã, theo mô thức
văn hoá, văn minh đô thị/đô thành.
Trải hơn ngàn năm lịch sử, kể từ khi còn là Tống Bình, Đại La, cảnh vật và
con người Hà Nội đã có biết bao thay đổi, nhưng truyền thống Hà Nội thì vẫn được
bồi đắp, tích tụ và đổi mới thêm mãi qua từng thời đại. Bởi mỗi thời đại hầu như
Hà Nội lại tiếp nhận một lớp cư dân mới cùng với những lớp văn hoá mới, do tình
hình lịch sử như vậy, cho đến nay ở Hà Nội hầu như không còn cái gọi là "cư dân
gốc bản địa". Có người nói người Hà Nội là dân "tứ chiếng". Điều đó rất đúng,
nếu xét trên bình diện xã hội - lịch sử của đất cố đô. Từ Cách mạng tháng Tám
năm 1945 đến nay, đặc biệt là từ sau ngày giải phóng Thủ đô 1-954, cư dân Hà Nội
cũng từng bước biến đổi và phát triển mạnh mẽ theo với đà xây dựng một thủ đô
công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Do vậy, cư dân Hà Nội là một cộng đồng người vừa
ổn định vừa biến động, vừa thống nhất vừa đa dạng, vừa mang những tính chất
chung của địa bàn sinh tụ, vừa mang những đặc điểm cố hữu của vùng đất quê
hương. Trong sự đan xen và đụng độ giữa các mặt đối lập ấy, các cặn bã sẽ bị
sàng lọc, các tinh hoa sẽ được kết tụ và trau dồi, chưng cất và thanh lọc về các
mặt ngôn ngữ, phong tục, tập quán cùng các sinh hoạt văn hoá khác, để từ đó nhào
nặn và lắng đọng thành tính cách Hà Nội, bản sắc Hà Nội. Có thể nói, kết quả của
sự giao hoà dân cư ấy đã tạo nên con người Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội vừa có
tính cách đặc thù, vừa có tính cách phổ quát. Con người ấy luôn luôn là con
người thời đại, nó kết hợp hài hoà những phẩm chất mới, cùng với những phẩm chất
cổ truyền nền nã, thuần hậu của truyền thống dân tộc, để trở thành con người
tiêu biểu cho cả nước về nhiều mặt, mà trong đó tính cách hào hoa, phong nhã,
tính cách thanh lịch văn minh nổi bật lên như những phẩm chất riêng, tiêu biểu
nhất của người Hà Nội./.
(Thanglonghanoi/Vietnam+)