14/10/2010
|
16:23:00
Từ "Nhịp chày Yên Thái"...
|
Ảnh minh họa. (Nguồn: Internet) |
Chắc ít nguời biết ngày xưa các cụ nhà ta gọi giấy dó là giấy Nam, bảo ra
chợ mua cho bố mấy tờ giấy Nam, thì đó chính là giấy dó.
Theo tôi biết, những tờ dó Nam đó chỉ có một lớp xeo mỏng bay. Từng tờ
được gập đôi, rồi đóng nẹp hoặc đóng chỉ gai thành tập để viết chữ nho. Tờ giấy
gập đôi dày hơn, khi viết hai mặt mực không thấm sang nhau.
Chỉ khi giấy dó in tranh mới có ba lớp bảy lớp. In tranh sức nén không thể
nhẹ nhàng nên mỏng quá là không in được vì thiếu độ thấm để màu bám lên mặt
giấy.
Sinh thời, nhạc sĩ Nguyễn Đình Phúc, tác giả "Tiếng đàn bầu" và "Hồn
du tử" cũng thích vẽ tranh. Ông nhìn tranh trên dó của tôi, nheo nheo mắt
“Thích lắm, mơ màng huyền bí, đẹp. Nhưng dó không phải chất liệu hội họa anh ạ.
Thế chất liệu hội họa là gì hả bác? - Là sơn dầu, ông khẳng định luôn. Thế giấy
dó vẽ cũng đẹp đấy thôi? - Đẹp nhưng chỉ để ký họa!
Thế là hiểu ra bác Phúc tin vào định kiến mơ hồ mà không tin vào cái hiện
hữu mới xác lập. Bác Phúc coi vẽ lên giấy dó chỉ là cái tạm thời.
Thế nhưng con giai bác, họa sĩ Nguyễn Xuân Tiệp lại mê dó và vẽ giấy dó
rất hay.
Một lần gặp gỡ Nguyễn Quân nhà phê bình nghệ thuật tại Hà Nội, ông bảo với
tôi “Các ông đã đưa giấy dó lên thành một thương hiệu nghệ thuật, công ấy không
nhỏ”. Bây giờ có tranh sơn dầu, tranh lụa, tranh sơn mài, tranh dó. Trước đây có
mấy ai biết đến hai từ tranh dó trong mỹ thuật?
Họa sĩ vẽ dó ở ta bây giờ cũng nhiều. Dòng chảy nghệ thuật trên dó có thể
sẽ lớn dần lên khi có vài sự thành công thuyết phục. Nhưng cái quan trọng nhất
là trong từ điển nghệ thuật rồi đây chắc chắn sẽ có bổ sung thuật ngữ tranh dó.
Xem tranh dó lại bâng khuâng nhớ đến kẻ Bưởi cách đây trăm năm với câu ca
dao “Nhịp chày Yên Thái, mặt sương Tây Hồ” nói về tiếng giã dó để xeo ra thứ
giấy Nam mà hôm nay chúng ta dùng nó vẽ tranh, biến dó thành một giá trị văn hóa
trong nghệ thuật.
Nghề làm dó của Yên Thái cách đây trăm năm nhà nghiên cứu người Pháp,
Herni Oger, đã kĩ lưỡng cho vẽ lại và ghi vào sách, dù không còn nhưng từ cái
gốc rễ ấy, giấy Nam vẫn còn đến hôm nay.
Đó là một giá trị thầm kín Thăng Long ít người biết, có khi cả người họa
sĩ vẽ dó ít khi nghĩ tới./.
(TT&VH/Vietnam+)