08/01/2012 | 15:55:00

Xây dựng Hà Nội xứng tầm đầu mối giao lưu quốc tế

Mỗi quốc gia có thể có một hoặc nhiều đầu mối giao lưu quốc tế, bao gồm thủ đô các thành phố quan trọng với cảng biển, sân bay, đặc khu kinh tế..., nhưng ít nhất có một đầu mối là thủ đô.

Thủ đô của bất cứ quốc gia nào cũng là đầu mối giao lưu quốc tế quan trọng nhất, vì đây là nơi tập trung các cơ quan lãnh đạo cao nhất của đất nước, các cơ quan đại diện ngoại giao của các quốc gia và các tổ chức quốc tế. Quan hệ đối ngoại càng rộng và càng đi vào chiều sâu, thì hoạt động đối ngoại ở thủ đô càng nhộn nhịp.

Vấn đề đặt ra ở đây không phải là xây dựng, phát triển Hà Nội thành một đầu mối giao lưu quốc tế, vì đó là điều đương nhiên, mà là làm thế nào để hoàn thành thật tốt vai trò đó.

Những điều kiện lịch sử

Truyền thống và kinh nghiệm đối ngoại của Thăng Long - Hà Nội và của dân tộc Việt Nam trước thời kỳ đổi mới

Dưới chế độ phong kiến Việt Nam độc lập, Thăng Long - Hà Nội là nơi diễn ra nhiều hoạt động đối ngoại nhằm bảo vệ và xây dựng đất nước của các triều đại Lý, Trần, Lê, Tây Sơn, Nguyễn, gắn với những tên tuổi của các nhân vật ngoại giao tiêu biểu trong những hoàn cảnh lịch sử khác nhau, với những đối tượng khác nhau, cùng những thành công rực rỡ và cả những thất bại đắng cay. Dân tộc Việt Nam vốn có truyền thống hoà hiếu, nhân đạo và hòa bình, có ý thức sâu sắc về chủ quyền quốc gia, hữu nghị với các nước láng giềng, khiêm nhường với nước lớn. Trước những thế lực xâm lược lớn mạnh ông cha ta đã kết hợp việc giành thắng lợi về quân sự với giải pháp ngoại giao để kết thúc chiến tranh.

Trong 30 năm chiến tranh cách mạng 1945-1975, Hà Nội là thủ đô của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, là đầu mối giao lưu quốc tế với những hoạt động đối ngoại sôi động, nhất là trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước (1954 - 1975), Hà Nội đã thiết lập được mối quan hệ với nhiều thành phố, thủ đô trên thế giới, đã thay mặt cho cả nước đón tiếp và bảo vệ những đoàn ngoại giao từ năm châu bốn biển, là đầu mối kết nối nhân dân Việt Nam với anh em, bạn bè quốc tế. Sự chia sẻ kinh nghiệm thành công, sự ủng hộ vật chất và tinh thần to lớn của các bạn là một trong những nguồn lực để Hà Nội xây dựng và chiến đấu thắng lợi.

Trong điều kiện cả nước có chiến tranh và sự biến đổi phức tạp của tình hình quốc tế từ sau Chiến tranh thế giới thứ II, đối ngoại Hà Nội nói riêng và cả nước nói chung phải thường xuyên giải quyết nhiều vấn đề mới, với đặc điểm quan trọng là ngoại giao gắn liền với chiến trường, “vừa đánh vừa đàm”, vừa đánh vừa vận động quốc tế, phục vụ sự nghiệp đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, vì độc lập tự do, bảo vệ chế độ cộng hoà dân chủ, góp phần vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Với ngọn cờ độc lập dân tộc và tư tưởng “không có gì quí hơn độc lập tự do”, Đảng và Hồ Chí Minh luôn ý thức đầy đủ về các quyền dân tộc cơ bản; yêu chuộng hòa bình, nhưng kiên quyết chống chiến tranh xâm lược; phát huy cao độ tinh thần độc lập tự chủ, đồng thời coi trọng đoàn kết quốc tế; hữu nghị với các nước láng giềng, khéo léo trong quan hệ với các nước lớn; cứng rắn về nguyên tắc, mềm dẻo về sách lược, bình tĩnh trong những lúc nguy nan; biết lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù, phân hoá kẻ thù, nhân nhượng có nguyên tắc với kẻ thù; vừa đánh vừa đàm.

Từ ngày đất nước độc lập, thống nhất đến trước thời kỳ đổi mới, quan hệ giao lưu quốc tế của Hà Nội và ở Hà Nội tiếp tục được mở rộng, nhưng chủ yếu là với các nước xã hội chủ nghĩa và một số nước trong khu vực, và cũng gặp không ít khó khăn do bị bao vây cấm vận về kinh tế.

Nền ngoại giao Việt Nam hiện đại gắn liền với tư duy và hoạt động đối ngoại của Hồ Chí Minh, làm xoay chuyển vận nước trong những lúc khó khăn, từng bước cải thiện quan hệ quốc tế, gắng sức vận dụng những điểm tương đồng, khai thác mọi khả năng có thể để tìm kiếm bạn đồng minh trong những điều kiện lịch sử vô cùng phức tạp, từng bước tiến đến thắng lợi cuối cùng. Vừa chỉ đạo, vừa
trực tiếp thực hiện công việc đối ngoại. Hồ Chí Minh xác định rõ quan hệ giữa Việt Nam và thế giới, giữa dân tộc và thời đại: “Tinh thần yêu nước và tinh thần quốc tế liên hệ khăng khít với nhau. Vì lẽ đó, ta vừa ra sức kháng chiến, vừa tham gia phong trào ủng hộ hòa bình thế giới”1.

Ngoại giao Việt Nam hiện đại tuân theo những tư tưởng cơ bản là: độc lập dân tộc gắn liền với phương hướng xã hội chủ nghĩa; độc lập tự chủ và đoàn kết quốc tế; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại; đi từ giành thắng lợi từng bước tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.

Kinh nghiệm cho thấy, ở bất cứ thời kỳ lịch sử nào, sức mạnh của đất nước vẫn luôn là chỗ dựa cho hoạt động đối ngoại nói chung và đấu tranh ngoại giao nói riêng. Chủ tịch Hồ Chí Minh tổng kết: “Thực lực là cái chiêng, ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to thì tiếng mới lớn”. Khi Hà Nội là nơi đứng chân của các cơ quan đầu não của đất nước thì hoạt động đối ngoại luôn sôi động, kể cả thời bình và thời chiến. Những thành công vả hạn chế trong hoạt động đối ngoại của Việt Nam nói chung và Thăng Long - Hà Nội nói riêng để lại nhiều bài học lịch sử quý báu cho các thời kỳ cách mạng sau, mà Hà Nội ngày nay có thể kế thừa và tiếp tục phát triển trong những điều kiện lịch sử mới.

Toàn cầu hóa và nhu cầu hội nhập

Trong sự phát triển của đại công nghiệp thế kỷ XIX, năm 1848 , Mác - Ăng ghen nhận định: “Đại công nghiệp tạo ra thị trường thế giới… “. “Thay cho tình trạng cô lập trước kia của các địa phương và dân tộc tự cung tự cấp, ta thấy phát trên những quan hệ phổ biến, sự phụ thuộc phổ biến giữa các dân tộc. Mà sản xuất vật chất đã như thế thì sản xuất tinh thần cũng không kém như thế. Những thành quả của hoạt động tinh thần của một dân tộc trở thành tài sản chung của tất cả các tân tộc. Tính chất đơn phương và phiến diện dân tộc ngày càng không thể tồn tại được nữa; và từ những nền văn học dân tộc và địa phương, muôn hình muôn vẻ, đang nảy nở ra một nền văn học toàn thế giới”1

Vài thập kỷ gần đây, dân tộc Việt Nam cùng cả nhân loại đang đứng trước một hiện thực khách quan là toàn cầu hoá nền kinh tế và đời sống xã hội mà động lực của nó là sự phát triển nhanh chóng của cách mạng khoa học và công nghệ. Vai trò của kinh tế tri thức ngày càng nổi bật.

Những điều kiện kinh tế kỹ thuật mới tăng cường sự thống nhất của thị trường thế giới, liên hoàn mạng thông tin liên lạc toàn cầu, phát triển nhanh những phương tiện giao thông vận tải, làm cho nền kinh tế và sự giao lưu kinh tế, văn hoá thế giới ngày càng quốc tế hoá cao.

Những thay đổi to lớn và cơ bản trong đời sống kinh tế, chính trị thế giới dẫn tới những cuộc tập hợp lực lượng mới . Sự kết thúc của cục diện thế giới hai cực đã thúc đẩy mạnh mẽ xu hướng đa phương, đa dạng hoá quan hệ quốc tế.

Cũng thời kỳ này những mâu thuẫn về dân tộc, sắc tộc, tôn giáo, lãnh thổ vẫn diễn ra gay gắt. Những biểu hiện bá quyền, ngoại giao cường quyền và những mưu toan áp đặt quan niệm và hình mẫu của nước này đối với các nước khác; hoặc tự xác định các tiêu chí “chuẩn mực” cho quan hệ quốc tế ngày càng công khai và lộ liễu. Vì vậy, cuộc đấu tranh chính trị vẫn tiếp diễn gay gắt, quyết liệt dưới những hình thức mới : “diễn biến hoà bình” và “chống diễn biến hoà bình”, vừa hợp tác đấu tranh.

Cộng đồng thế giới đứng trước nhiều vấn đề có tính toàn cầu, từ những vấn đề kinh tế đến những vấn đề dân số, môi trường; từ các bệnh dịch thế kỷ đối với con người và gia súc, gia cầm đến các tệ nạn xã hội; từ tình trạng đói nghèo, thất nghiệp, đến kho vũ khí huỷ diệt và chiến tranh. . . Tuy nhiên, xu thế chủ yếu của tình hình thế giới là: hoà bình, ổn định và hợp tác để phát triển.

Hiện thực khách quan đó làm tăng tính tuỳ thuộc vào nhau giữa các quốc gia dân tộc. Sự hợp tác đa phương trở thành tất yếu trong việc giải quyết những vấn đề toàn cầu. Các quốc gia lớn, nhỏ tham gia ngày càng nhiều vào quá trình hợp tác và liên kết khu vực, liên kết quốc tế về kinh tế, thương mại và nhiều lĩnh vực khác. Sự hợp tác ngày càng gia tăng, đi đôi với cạnh tranh ngày càng gay gắt. Các dân tộc nâng cao ý thức độc lập tự chủ, tự lực tự cường, chống lại sự áp đặt và can thiệp của nước ngoài, bảo vệ độc lập chủ quyền và văn hoá dân tộc. Các nước xã hội chủ nghĩa, các Đảng Cộng sản và công nhân, các lực lượng cách mạng, tiến bộ kiên trì đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Các nước có chế độ chính trị khác nhau vừa hợp tác, vừa đấu tranh trong cùng tồn tại hoà bình.

Dù các nước phát triển hay đang phát triển, các nước tư bản chủ nghĩa hay xã hội chủ nghĩa đều tham gia quá trình toàn cầu hoá. Tuy nhiên. mục tiêu của mỗi nước có điều dị biệt, hoặc là theo đuổi mục tiêu lợi nhuận đồng thời khống chế thị trường thế giới, chi phối và lôi cuốn những nước nhỏ yếu đi theo quỹ đạo của mình (đối với các nước tư bản chủ nghĩa phát triển cao), hoặc là tranh thủ điều kiện để xây dựng và phát triển nền kinh tế độc lập tự chủ (đối với các nước dân tộc chủ nghĩa vừa mới thoát ách thống trị của chủ nghĩa thực dân), hoặc là chủ động hội nhập để phục vụ sự phát triển kinh tế, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tránh tụt hậu và thu hẹp khoảng cách với các nước khác (đối với các nước xã hội chủ nghĩa).

Hội nhập (Integration) là một nhu cầu xuất hiện do tác động của toàn cầu hoá, không có sự phân biệt về chế độ chính trị giữa các quốc gia. Việc thành lập các tổ chức kinh tế khu vực và thế giới cùng sự hình thành và phát triển của các công ty đa quốc gia là sự phản ánh nhu cầu hội nhập và mở rộng hợp tác.

Việt Nam không thể tách mình khỏi thế giới bên ngoài, mà phải thuận theo xu thế mở rộng giao lưu quốc tế, chủ động hội nhập kinh tế khu vực và thế giới với bước đi và lộ trình thích hợp.

Nếu như trong chiến tranh đối ngoại gắn liền với chính trị và quân sự, thì trong bối cảnh toàn cầu hóa và nhu cầu hội nhập, đối ngoại nói riêng, giao lưu quốc tế nói chung gắn chặt với kinh tế, văn hóa, tất nhiên không thể tách rời an ninh, quốc phòng. Kinh tế trở thành nhân tố quyết định sức mạnh tổng hợp của từng quốc gia và ngày càng đóng vai trò quan trọng trong quan hệ quốc tế sau thời kỳ chiến tranh lạnh. Hà Nội có những cơ hội thuận lợi mới, nhưng cũng đứng trước những thách thức mới trong mọi hoạt động giao lưu quốc tế.

Đường lối, chính sách đối ngoại đổi mới của Đảng

Với tầm nhìn xa trông rộng, ngay khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà mới ra đời (1945), trong Lời kêu gọi Liên hợp quốc, Hồ Chí Minh nêu rõ chính sách đối ngoại rộng mở của Việt Nam:

“Đối với các nước dân chủ, nước Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở
cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực:
a) Nước Việt Nam dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của các nhà tư bản, nhà kỹ thuật nước ngoài trong tất cả các ngành kỹ nghệ của mình.
b/ Nước Việt Nam sẵn sàng mở rộng các cảng, sân bay và đường sá giao thông cho việc buôn bán và quá cảnh quốc tế.
c) Nước Việt Nam chấp nhận mọi tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế dưới sự lãnh đạo của Liên hợp quốc”1.

Từ khi khởi đầu sự nghiệp đổi mới, phương hướng trong chính sách đối ngoại của Việt Nam là “mở rộng quan hệ quốc tế trên nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình”2. Đại hội VII của Đảng (6- 1 99 1 ) chủ trương: “Tạo ra môi trường quốc tế thuận lợi mở rộng và tăng cường quan hệ quốc tế về chính trị, kinh tế, văn hóa và khoa học kỹ thuật”3. Đại hội tuyên bố: “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”1. Đại hội lần thứ VIII (6-1996) đã phân tích những đặc điểm và xu thế chủ yếu của tình hình thế giới, khẳng định lại những nguyên tắc, quan điểm cơ bản chỉ đạo quan hệ đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam, xác định những nhiệm vụ cụ thể của hoạt động đối ngoại, nhấn mạnh hợp tác nhiều mặt song phương và đa phương với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực, tăng cường quan hệ với các tổ chức của Liên hợp quốc và các tổ chức quốc tế khác; tích cực hoạt động ở các diễn đàn quốc tế, tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu . .
.
Những năm cuối thế kỷ XX, Việt Nam đạt được những thành tựu quan trọng, “hoá giải được những tác động kinh tế của sự tan vỡ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu”2. Quan hệ ngoại giao nói chung và quan hệ kinh tế nói riêng giữa Việt Nam với các nước trên thế giới ngày càng được củng cố và tăng cường.

Sang năm đầu thế kỷ XXI, Đảng Cộng sản Việt Nam nhận thức rằng: toàn cầu hoá là một xu thế khách quan, ngày càng có nhiều nước tham gia, đang bị một Số nước phát triển và các tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia chi phối, chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác, vừa có đấu tranh”. Đại hội IX của Đảng chủ trương mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, đề ra phương châm: “Thực hiện nhất quán chính sách đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế và tuyên bố: “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”3.

Đại hội X của Đảng (4-2006) xác định mục tiêu và phương hướng đối ngoại là tiếp tục “thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình hợp tác và phát.triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực”4.

Riêng đối với Hà Nội, Đảng và Nhà nước có nhiều chủ trương, chính sách mới, đặc biệt là Nghị quyết 15/NQ/TW ngày 15-12-2000 của Bộ Chính trị về phương hướng, nhiệm vụ phát triển thủ đô trong thời kỳ 2001 -2010 và Pháp lệnh thủ đô Hà Nội (do ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua, 28-12-2000), có ý nghĩa như khâu đột phá, thúc đẩy sự vận động của cả hệ thống kinh tế - xã hội cùng vị thế đối ngoại của thủ đô.

Nhà nước có những quy định tạo điều kiện để xây dựng Hà Nội trở thành Trung tâm Tài chính - tiền tệ của khu vực và cả nước. Chính phủ cho phép Hà Nội được chủ động quyết định cơ chế, chính sách nhằm khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước đầu tư phát triển giáo dục đào tạo.

Chủ trương đối ngoại đổi mới của Đảng, vừa tạo điều kiện thuận lợi, vừa đòi hỏi Thủ đô phải tăng cường và mở rộng các hoạt động giao lưu quốc tế, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Thủ đô và đất nước.

Những thành tựu và hạn chế của Hà Nội trong hoạt động giao lưu quốc tế thời kỳ đổi mới

Những chủ trương và biện pháp của tổ chức đảng và chính quyền Thủ đô Hà Nội. Nhận thức được vị thế đặc biệt quan trọng của Thủ đô, tổ chức đảng và chính quyền Hà Nội có nhiều chủ trương, biện pháp nhằm tận dụng những điều kiện thuận lợi, mở rộng hoạt động đối ngoại, góp phần giữ vững môi trường hoà bình và phát triển kinh tế - xã hội.

Tháng 4-1988, Thành ủy chủ trương mở rộng quan hệ với nước ngoài, trước hết với thủ đô các nước xã hội chủ nghĩa, tranh thủ thời cơ mở rộng hợp tác kinh tế với nước ngoài bằng các chính sách, cơ chế thật năng động.

Tháng 1 - 1990, Hội đồng nhân dân thành phố đề ra nhiệm vụ tăng cường hợp tác với nước ngoài để mở rộng sản xuất, tạo thêm hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu.

Hội nghị Thành uỷ lần thứ 17 (12-1990) chủ trương mở rộng các hoạt động kinh tế đối ngoại, phấn đấu cân đối các nhu cầu ngoại tệ của thành phố. Coi trọng thị trường truyền thống, tích cực tìm thị trường mới, nhất là thị trường các nước lân cận. Các cơ sở sản xuất kinh doanh cần tranh thủ mọi nguồn vốn, nhất là đầu tư hợp tác với nước ngoài để đổi mới thiết bị công nghệ, làm hàng có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu trong nước và xuất khẩu..., tranh thủ các nguồn vốn đầu tư và viện trợ nhân đạo của nước ngoài.

Đại hội đại biểu lần thứ XII của Đảng bộ Hà Nội chủ trương tăng cường công tác đối ngoại của thành phố, mở rộng và phối hợp các hình thức, loại hình đối ngoại nhằm thiết thực phục vụ yêu cầu đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao vị thế của thủ đô trong khu vực và trên thế giới . Thành uỷ Hà Nội khóa XII đã đề ra chương trình số 10-CTr/TU (8-2- 1998) về phát triển kinh tế đối ngoại đến năm 2000 và các năm tiếp theo, xác định: “Việc thu hút và sử dụng các nguồn vốn đầu tư trực tiếp (FDI) phải được tập trung vào các lĩnh vực: sản xuất hàng xuất khẩu thay thế nhập khẩu, đẩy mạnh tốc độ nội địa hoá sản phẩm, du lịch, dịch vụ thu ngoại tệ, ưu tiên cho những dự án sản xuất có công nghệ và kỹ thuật tiên tiến, thu hút nhiều lao động, những dự án kinh doanh dịch vụ có hiệu quả cao hoặc những dự án góp phần nâng cao đời sống văn hoá, tinh thần của nhân dân Thủ đô”1.

Ngày 10-9-1992, Uỷ ban nhân dân thành phố đề ra nhiệm vụ xác định cơ chế chính sách, tìm các giải pháp phù hợp để khai thác, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn và tài sản tiềm tàng trong các tổ chức kinh tế, trong nhân dân, thu hút vốn đầu tư nước ngoài để phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn thủ đô.

Đại hội lần thứ XIII Đảng bộ thành phố Hà Nội ( 12-2000) tiếp tục khẳng định: Tăng cường công tác đối ngoại của thành phố, phục vụ thiết thực yêu cầu đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao vị thế của Thủ đô trong khu vực và trên thế giới. Chủ trương trong hoạt động đối ngoại của thành phố là “mở rộng, phối hợp chặt chẽ các hình thức, loại hình đối ngoại: Đối ngoại chính trị - đối ngoại kinh tế, đối ngoại văn hóa; đối ngoại nhà nước, đối ngoại đoàn thể, đối ngoại nhân dân. Đối ngoại kinh tế là trọng tâm, đối ngoại nhà nước đóng vai trò chủ đạo. Đối ngoại kinh tế phải gắn liền và phục vụ trực tiếp quá trình phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố. Đối ngoại nhà nước phải chỉ đạo, điều phối và tạo điều kiện để đối ngoại đoàn thể, đối ngoại nhân dân phát triển. Củng cố, hoàn thiện hệ thống tổ chức và tăng cường đầu tư cơ sở vật chất phục vụ hoạt động đối ngoại; kiện toàn Sở Ngoại vụ; thống nhất quản lý hoạt động đối ngoại, đề cao tính kế hoạch, chất lượng, hiệu quả của hoạt động đối ngoại nói chung; quan tâm đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại. Hội nhập kinh tế quốc tế cần đảm bảo nguyên tắc cùng có lợi, phát huy cao độ nội lực, thực hiện phương châm đa phương hóa, đa dạng hóa nhằm tìm kiếm thị trường tiêu thụ hàng hóa, thu hút nguồn vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý... làm cho kinh kế của thủ đô phát triển toàn diện, vững chắc, có khả năng hợp tác, cạnh tranh với' các nền kinh tế trong khu vực và quốc tế Thành uỷ Hà Nội khóa XIII cũng đề ra chương trình công tác số 11/CTr/TU về nâng cao hiệu quả đầu tư, phát triển các loại hình dịch vụ, đẩy mạnh hội nhập khu vực và quốc tế. Tháng 12-2003 UBND Thành phố Hà Nội quyết định thành lập Ban hội nhập kinh tế quốc tế, với các giải pháp cải thiện môi trường pháp lý, kinh doanh, đẩy mạnh cải cách hành chính phù hợp với các cam kết và yêu cầu về hội nhập kinh tế quốc tế.

Đại hội đại biểu Đảng bộ Thành phố lần thứ XIV đã đề ra nhiệm vụ mở rộng quan hệ đối ngoại, hợp tác phát triển để nâng cao vị thế của thủ đô; Hà Nội phải hoàn thiện nội dung chiến lược đối ngoại của thủ đô trong tình hình mới, chỉ đạo thực hiện lộ trình, kế hoạch thủ đô hội nhập kinh tế quốc tế là khâu quan trọng để nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của kinh tế thủ đô. Thực hiện đa dạng hóa, đa phương hóa, kết hợp chặt chẽ các loại hình đối ngoại, thực hiện tốt phương châm đối ngoại kinh tế là trọng tâm; đối ngoại nhà nước đóng vai trò chủ đạo, tăng cường mở rộng đối ngoại nhân dân. Phát triển dịch vụ đối ngoại trở thành ngành kinh tế đặc thù của thủ đô, xây dựng Hà Nội trở thành trung tâm giao dịch quốc tế của cả nước và khu vực. Tăng cường công tác quản lý nhà nước về đối ngoại, tổ chức tốt các hoạt động ngoại giao, hợp tác quốc tế của thủ đô; mở rộng các hoạt động giao lưu hợp tác quốc tế về giáo dục, đào tạo, y tế, khoa học công nghệ, văn hoá thể thao, an ninh quốc phòng, đẩy mạnh tuyên truyền quảng bá, giới thiệu về thủ đô với bạn bè quốc tế. Thiết lập quan hệ hợp tác chặt chẽ với đại sứ quán và thương vụ Việt Nam tại các nước. Nâng cao chất lượng đội ngũ làm công tác đối ngoại.

Một số thành tựu và hạn chế

20 năm trong thời kỳ đổi mới (1986-2006), hoạt động đối ngoại của Hà Nội đạt được nhiều thành thành tựu quan trọng:

- Hà Nội có quan hệ hữu nghị và hợp tác với trên 60 thủ đô, thành phố của hơn 50 nước và vùng lãnh thổ, là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế, như: Hiệp hội các thành phố lớn trên thế giới (Metropolis), Hiệp hội các Thị trưởng các thành phố có sử dụng tiếng Pháp trên thế giới (AIMF), Mạng lưới các thành phố lớn châu Á thế kỷ XXI (ANMC2 1 ), Mạng lưới các chính quyền địa phương về quản lý cư dân, giải quyết các vấn đề về con người (CITYNET), Hiệp hội các thành phố có lịch sử lâu đời (LHC). Hoạt động đối ngoại mở rộng khá toàn diện trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học, thể dục thể thao... góp phần nâng cao vị thế và đưa thủ đô tham gia tích cực vào tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế... Hà Nội trở thành điểm đến hấp dẫn, an toàn đối với các nhà đầu tư và du khách quốc tế.

- Mối quan hệ hợp tác và hữu nghị của Hà Nội với nhiều tổ chức quốc tế được xây dựng và củng cố: Hiệp hội các nước Đông Nam á, Ngân hàng Thể giới, Liên Hợp quốc và các 'tổ chức của Liên hợp quốc như: Quy Nhi đồng, Tổ chức Nông nghiệp và Lương thực, Chương trình chung về HIV - AIDS, Quỹ Dân số, Tổ
chức Văn hóa, Khoa học và Giáo dục, Tổ chức Y tế Thế giới ; Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Quỹ Môi trường toàn cầu Pháp (FFEM). . . , Từ những tổ chức này, Hà Nội có được sự giúp đỡ về tài chính, kỹ thuật và hàng hóa dưới các hình thức viện trợ không hoàn lại, viện trợ nhân đạo, hoặc cho vay dưới dạng ODA; tập trung vào ba nhóm: (1) Quản lý nhà nước, Quản lý đô thị, Xây dựng Cơ Sở hạ tầng và môi trường; (2) Văn hóa, giáo dục. đào tạo và nghiên cứu khoa học; (3) Xóa đói giảm nghèo, y tế và phòng chống các tệ nạn xã hội.

- Công tác nghiên cứu, thông tin, tuyên truyền đối ngoại của Hà Nội được chú trọng. Nhằm tìm hiểu đối tác, tiếp cận thị trường, từ năm 2001 đến năm 2003, Sở Thương mại Hà Nội đã cử nhiều đoàn tiến hành xúc tiến thương mại, mở thêm nhiều văn phòng giao dịch tại các thị trường trọng điểm. Các doanh nghiệp Hà Nội bước đầu thâm nhập vào thi trường Nhật Bản, Nga, Hoa Kỳ, Châu Phi, Trung Quốc, Canađa, Ấn Độ, châu Âu và châu Phi.

Hà Nội đã xây dựng được mối quan hệ với đại lý vận tải biển ở các nước . châu Á và có một đội ngũ cán bộ, thuyền viên có chuyên môn, nghiệp vụ, tích luỹ được một số kinh nghiệm về vận tải biển quốc tế, hợp tác liên kết với ngành từ trung ương đến địa phương trong nước và ngoài nước. Các hành lang kinh tế Côn Minh - Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng và Nam Ninh - Lạng Sơn - Hà Nội - Hải Phòng, tạo điều kiện khẳng định vai trò của Hà Nội và tạo động lực mạnh mẽ cho sự phát triển của vùng.

Kim ngạch xuất khẩu ngày càng tăng, nhiều mặt hàng do Hà Nội sản xuất từng bước chiếm lĩnh thị trường các nước EU, ASEAN, Nhật Bản.

Hà Nội là một trong những thành phố đứng đầu cả nước về số dự án cũng như tổng vốn đăng ký đầu tư trực tiếp nước ngoài1. Cơ cấu tổng sản phẩm nội địa (GDP) khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng nhanh2. Năm 2005, Hà Nội thu hút được 152 dự án đầu tư, trở thành địa phương dẫn đầu cả nước về thu hút vốn đầu tư nước ngoài, với tổng vốn đạt 1.847 triệu USD (tăng 5,3 lần so với năm 2004)3; trong đó dự án khu đô thị mới Tây Hồ trị giá 314 triệu USD.

Các dự án vốn FDI có tác động tích cực trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của Hà Nội, góp phần đáng kể làm tăng năng lực sản xuất; thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mở ra nhiều ngành nghề và sản phẩm công nghiệp mới như lắp ráp, sản xuất ô tô, xe máy, ti vi và các hàng điện tử, hàng công nghiệp cao cấp khác; bổ sung cho nguồn vốn đầu tư xã hội, mở rộng thị trường xuất khẩu, tạo thêm nhiều việc làm, tăng thu nhập của người lao động4, nâng cao trình độ khoa học công nghệ, tiếp thu cung cách quản lý tiên tiến, và phương thức tiếp thị hiện đại; trình độ của nguồn nhân lực được nâng cao. Mặt khác, thông qua các hoạt động của doanh nghiệp do nước ngoài đầu tư, quan hệ hợp tác kinh tế đối ngoại, phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế của Hà Nội cũng có thêm điều kiện phát triển.

Bên cạnh những thành tựu, Hà Nội còn nhiều mặt hạn chế và đứng trước những thử thách lớn:

Trước hết là nguy cơ về sự lạc hậu trong công nghệ, kỹ thuật sản xuất, kết cấu hạ tầng so với nhiều thành phố trong khu vực; nguy cơ bất ổn chính trị do xu hướng diễn biến hoà bình của các lực lượng thù địch; rồi những thách thức về tệ nạn quan liêu, tham nhũng trong bộ máy quản lý các cấp. Cải cách hành chính còn chậm chạp. Ở nhiều ngành, cấp chính quyền, chức năng, nhiệm vụ chưa rõ ràng, chồng chéo. Bộ máy quản lý cồng kềnh, kém hiệu quả; cán bộ kém năng lực chuyên môn, thiếu trách nhiệm với dân... Phản ánh của dân và doanh nghiệp về phiền hà chủ yếu vẫn là thủ tục hành chính, kể cả trong cơ quan hệ pháp của thành phố. Những cái xấu trong các thủ tục hành chính cùng các tệ nạn xã hội không dễ khắc phục một sớm một chiều là một trong những nguyên nhân làm suy yếu sức mạnh của thủ đô trong mọi hoạt động giao lưu quốc tế.

Thứ hai, Hà Nội nằm trong tình trạng chung của cả nước là: “Chưa có cơ chế, chính sách, pháp luật đồng bộ để thúc đẩy các doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh phù hợp với yêu cầu triển khai các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế Nhiều doanh nghiệp ít hiểu biết về nội dung, bước đi và lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế cũng như luật pháp và thông lệ kinh doanh của các nước có liên quan đến hoạt động kinh doanh của mình; còn trông chờ nhiều vào sự bảo hộ của Nhà nước; chưa tích cực chuẩn bị tham gia quá trình hội nhập “1. Việc xúc tiến các công việc theo lịch trình hội nhập, thực hiện các cam kết song phương, đa phương của nhiều cơ quan nhà nước và doanh nghiệp còn chậm và chưa đảm bảo độ tin cậy.

Thứ ba, môi trường kinh doanh còn kém hấp dẫn. Theo kết quả điều tra của Phòng Công nghiệp và Thương mại Việt Nam (VCCI) phối hợp với Dự án sáng kiến năng lực cạnh tranh Việt Nam (VNCI) công bố ngày 1-6-20062, năm 2006 chỉ số năng lực cạnh tranh về môi trường kinh doanh của Hà Nội đã tụt từ vị trí số 14 (trong tổng số 42 tỉnh, thành phố được điều tra năm 2005) xuống thứ 40. Thứ hạng của các địa phương không hoàn toàn phụ thuộc vào vị trí địa lý mà chủ yếu phụ thuộc vào chính yếu tố con người. Nhiều địa phương khác như Đà Năng, Bình Định, Vĩnh Long... có thứ hạng cao hơn Hà Nội và Hải phòng. Trong 10 chỉ số điều tra, duy nhất chỉ số về tính minh bạch của Hà Nội được cải thiện so với năm 2005, nhưng chỉ số gia nhập thị trường thấp xa so với các tỉnh dẫn đầu, các chỉ số về tiếp cận đất đai, tính minh bạch, tính năng động và tiên phong của lãnh đạo đều dưới 5.

Thứ tư không phải tất cả các nguồn tài chính mà thành phố Hà Nội nhận được từ các tổ chức quốc tế đều là viện trợ nhân đạo hay viện trợ không hoàn lại, mà có một phần quan trọng là các dự án cho vay dưới dạng ODA. Điều đó đồng nghĩa với việc chính quyền, nhân dân thành phố sẽ phải trả các khoản nợ này khi đáo hạn. Như vậy, một vấn đề đặt ra buộc chính quyền thành phố phải quan tâm là làm thế nào để sử dụng các khoán tài chính vay ưu đãi và cả các khoản viện trợ, khác một cách có hiệu quả, nhằm tạo ra sự phát triển bền vững, nâng cao mức sống của nhân dân, tránh được tình trạng bị một số cán bộ lợi dụng chức quyền tham nhũng. Nguồn vốn này đã được sử dụng như thế nào, hiệu quả đến đâu, và sau này sẽ trả nợ như thế nào? Đó là những câu hỏi cần tìm lời giải đáp.

Thứ năm, vẻ đẹp bề ngoài (cảnh quan đô thị) của Hà Nội đã xấu đi quá nhanh và quá nhiều trong những năm gần đây, nhất là nhìn từ trên cao. Nhiều di tích lịch sử - văn hóa bị xâm hại, thậm chí bị phá bỏ. Nhà ngục Baxti ở Pari vẫn còn đó, mà Hỏa Lò của thực dân Pháp xây tại Hà Nội biến mất rồi (!). Sự hài hòa giữa những khu phố cổ của Hà Nội với những khu phố thực dân theo kiến trúc lấy Hồ Gươm làm trung tâm mà người Pháp hết sức chú trọng khi mở rộng nội đô Hà Nội, đã không được kế thừa, mà thay vào là những tòa cao ốc xấu xí, lạc lõng, phá nát không gian nhỏ bé nhưng hấp dẫn của nội thành Thủ đô. Những con sông chảy qua thành phố đã biến thành những đường dẫn nước thải lộ thiên... Sự suy giảm môi trường sinh thái diễn ra ngày càng nhanh, ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống con người. Sự phát triển công nghiệp và văn minh thương nghiệp đang là những nguyên nhân chủ yếu gây ra tình trạng ô nhiễm môi trường. Luật Môi trường đã được ban hành, nhưng việc thực hiện còn nhiều bất cập, chưa có sự quan tâm của mọi cấp, mọi ngành. An ninh môi trường đòi hỏi phải có một chiến lược toàn diện hơn.

Hà Nội có rất nhiều việc phải làm

Hà Nội “là trung tâm đầu não chính trị - hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn hoá, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế của cả nước; là nơi đặt trụ sở của cơ quan Trung ương Đảng và Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, các cơ quan đại diện ngoại giao, tổ chức quốc tế và là nơi diễn ra các hoạt động đối nội, đối ngoại quan trọng nhất của đất nước”1. Với vị thế là thủ đô, Hà Nội phải kết hợp với các cơ quan hữu quan phục vụ các hoạt động đối ngoại của Trung ương Đảng Quốc hội, Chính phủ và các đoàn thể chính trị - xã hội một cách có hiệu quả. Mặt khác, với tư cách một thành phố, một địa phương, Hà Nội có tính độc lập tương đối trong quan hệ với các thủ đô, các thành phố trên thế giới và cả các tổ chức quốc tế về nhiều mặt, trên cơ sở đường lối, chính sách của đảng và pháp luật của Nhà nước. Trong bối cảnh hiện nay, Hà Nội không chỉ là điểm tới của các nguyên thủ quốc gia, các chính khách, các nhà ngoại giao, mà còn là nơi làm việc của các nhà đầu tư, các thương nhân, các nhà khoa học, văn hóa, các đoàn khách thể thao, du lịch... từ khắp nơi trên thế giới.

Hà Nội có lợi thế để phát triển về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội và ngoại giao, thúc đẩy nhanh quá trình hợp tác trong nước và ngoài nước. Nhưng đồng thời Hà Nội cũng đứng trước những thách thức mới phải vượt qua để ngang tầm một đầu mối giao lưu quốc tế quan trọng nhất của đất nước.

Hoạt động đối ngoại của Hà Nội có nhiệm vụ phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Thủ đô và đất nước, nhưng về nguyên tắc, để hoạt động đối ngoại có hiệu quả thì trước hết phải có sức mạnh toàn diện.

Trước hết, Hà Nội phải mạnh. Sức mạnh tổng hợp của nhiều nhân tố là chỗ dựa của ngoại giao. Thay vì dựa vào sức mạnh quân sự là chủ yếu trong thời chiến, vị thế đối ngoại trong thời bình phụ thuộc rất nhiều vào kinh tế. Những trung tâm kinh tế bao giờ cũng là những đầu mối giao lưu quốc tế lớn trên thế giới, thu hút các hoạt động thương mại và đầu tư.

Trong tất cả các tổ chức quốc tế đều có sẵn những “luật chơi”, mà khi tham gia Việt Nam phải chấp nhận. Trong các “cuộc chơi”, lợi ích không bao giờ được chia bình quân cho tất cả các bên tham gia, mà bao giờ kẻ mạnh cũng có lợi hơn, kẻ yếu phải chịu thua thiệt. Hơn nữa, trong quan hệ đối ngoại, nhìn chung, bất cứ quốc gia, đơn vị, hay tổ chức nào đều không thể chỉ “biết nhận”, mà còn phải “biết cho”, không chỉ biết vay mà còn phải luôn nhớ tới trả cả vốn lẫn lãi. Quan hệ quốc tế thường bị chi phối bởi các nước lớn mạnh, thậm chí có cả hiện tượng “áp đặt”, “cường quyền”.

Trong nền kinh tế thị trường, sự giao lưu kinh tế ngày càng mở rộng. Do vậy, am hiểu bản thận và đối tác là yêu cầu rất quan trọng để giữ quyền chủ động, tức là không chỉ “biết mình”, mà còn phải “biết người”, yêu cầu quan trọng của hội nhập kinh tế là mở cửa thị trường, xoá bỏ chính sách bảo hộ mậu dịch. Trách nhiệm này không chỉ cửa nhà nước Trung ương mà của tất cả các địa phương, các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế. Đây là một khó khăn lớn, kể cả các nước tư bản chủ nghĩa có trình độ kinh tế phát triển cao.

Một trong những lợi thế cạnh tranh là chất lượng sản phẩm và giá rẻ. Nhật Bản là nước rất thành công trong việc phát huy lợi thể này để “len lách” trên thị trường thế giới. Trong khi giá rẻ của một số mặt hàng như cá Ba sa, tôm của Việt Nam chẳng hạn) là lợi thế của một số nước đang phát triển, có khả năng cạnh tranh và chiếm thị phần ở các nước phát triển. đụng chạm quyền lợi của các công ty sản xuất mặt hàng này của họ. thì các nước lớn dễ dàng thực hiện chính sách bảo hộ mậu dịch bằng việc áp dụng luật “chống phá giá”. Bởi thế, các ngành và các doanh nghiệp của thành phố cần chủ động tìm hiểu đối tác, và vai trò của chính quyền là giúp cho các doanh nghiệp có những thông tin đầy đủ và chính xác về đối tác để tạo điều kiện cho sự “làm ăn” được thuận lợi.

Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế làm tăng tính tuỳ thuộc vào nhau giữa các quốc gia, làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh và mang tính xã hội hoá ngày càng cao, nhưng đồng thời cũng dễ dàng làm suy giảm chủ quyền quốc gia do khả năng lệ thuộc về vốn và công nghệ vào những nước phát triển cao. Đó là một nguy cơ luôn tiềm ẩn đối với những nước có trình độ phát triển thấp. Bên cạnh đó, có còn có nguy cơ khủng hoảng kinh tế, tài chính lây lan nhanh như một dịch bệnh.

Điều phải kiên quyết tránh là để cho một quốc gia hay một tập đoàn kinh tế nước ngoài chiếm vị trí độc quyền đối với một lĩnh vực kinh tế hoặc một ngành kinh tế của thành phố và đất nước. Đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại là phương châm hết sức quan trọng. Quan hệ rộng rãi với nhiều đối tác nước ngoài chính là tạo khả năng giữ thế cân bằng, tránh sự lệ thuộc một chiều vào một hoặc một số đối tác nhất định. Đó là một giải pháp để vừa mở rộng các mối quan hệ kinh tế, vừa giữ vững độc lập tự chủ.

Hai là, Hà Nội phải đẹp. Một “Hà Nội” thanh lịch, duyên dáng, môi trường tự nhiên và xã hội trong sạch sẽ là nơi hấp dẫn bạn bè quốc tế, kể cả giới làm ăn; làm cho người chưa tới thì muốn tới, người đã tới muốn trở lại, người đã vào làm ăn thì không muốn ra đi, và chỉ như thế mới có lợi trong quan hệ với thế giới bên ngoài .

Bởi vậy, trong giao lưu quốc tế, mở rộng quan hệ với thủ đô và thành phố các nước, cần chú trọng hợp tác về các lĩnh vực quy hoạch, xây dựng và quản lý đô thị xây dựng cơ sở hạ tầng theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phối hợp hài hoà giữa cái cũ và cái mới, giữ gìn cảnh sắc đô thị riêng của Hà Nội.

Hội nhập và mở cửa vừa có cơ hội thuận lợi hơn trong việc giao lưu văn hóa quốc tế, tiếp thu những giá trị tinh hoa văn hoá nhân loại, nhưng đồng thời cũng dễ dàng để lọt những giá trị phản văn hoá, phản tiến bộ, làm băng hoại những giá trị văn hóa dân tộc, gây mất an ninh về văn hóa. Việc thương mại hoá các hoạt động văn hóa nghệ thuật cũng là một biểu hiện đáng lo ngại. Vì thế nhiệm vụ xây dựng một nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ di sản văn hóa dân tộc là nhiệm vụ hết sức nặng nề. Tại Hội thảo quốc tế Việt Nam trong thế kỷ, Bertrand de Hartingh, tiến sĩ trường Viễn Đông Bác Cổ Pháp cho rằng “thách thức chính của Việt Nam hôm nay là khả năng phát triển mô hình riêng của mình. Căn cứ vào những bài học của thế kỷ này, dân tộc Việt Nam có thể vạch ra con đường riêng, hướng tới sự phát triển riêng, không đi ngược lại cộng đồng quốc tế, nơi Việt Nam vừa gia nhập lại, song đặc biệt nhấn mạnh bản sắc cội nguồn dân tộc”1.

Cái đẹp của Hà Nội phải được biểu hiện trong văn hóa ứng xử, nhất là các cơ quan công quyền. Phải coi cải cách hành chỉnh là một sự cải biến có tính cách mạng. Cần dũng cảm thừa nhận một sự thức là: bản thân các cơ quan tự cải cách rất chậm, sự quản lý của người phụ trách còn nhiều yếu kém, để nhân viên gây phiền hà, nhũng nhiễu đương sự. Phải dựa vào dân để tiến hành cải cách hành chính. Đó không phải là một khẩu hiệu, mà phải có biện pháp tổ chức hành động cụ thể, kiên quyết.

Thực tế các nước trên thể giới, kể cả các nước có nền hành chính công phát triển cho thấy, cải cách hành chính là việc làm cần thiết và dường như không có điểm dừng. Mục tiêu của cải cách hành chính phải là chống quan liêu, tham nhũng, loại bỏ tận gốc các căn nguyên về văn hóa, xã hội, pháp lý dẫn tới tham nhũng.

Thủ đô không nhất thiết phải là nơi tập trung cao các cơ sở sản xuất công nghiệp, nhưng nhất thiết phải là trung tâm văn hóa quan trọng nhất của đất nước. Hà Nội phải đi đầu trong việc xây dựng chính phủ điện tử, làm cho bộ máy hoạt động minh bạch và hiệu quả hơn, khắc phục bệnh quan liêu, giúp cho đương sự trong nước và quốc tế, nhất là các doanh nhân tiếp xúc với các cơ quan công quyền một cách thuận lợi ; nhanh chóng hình thành phong cách và phương pháp làm việc mới, năng động và sáng tạo, tương thích với yểu cầu hội nhập và mở rộng giao lưu quốc tế.

Ba là, Hà Nội phải khéo. Hoạt động giao lưu quốc tế là một nghệ thuật nhằm đạt mục tiêu chính trị đối ngoại, phục vụ cho chính trị đối nội.

Đội ngũ cán bộ chuyên làm công tác đối ngoại phải thật sự có năng lực và phẩm chất, tận tâm, tận lực phục vụ các hoạt động giao lưu quốc tế của thành phố. Không nên áp dụng hình thức tuyển dụng công chức làm việc suốt đời đối với đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại nói riêng và đội ngũ cán bộ hành chính nói chung, nhằm thu hút người tài vào khu vực công. Thành phố cần quan tâm lượng hóa tiêu chuẩn những chuyên viên, công chức có trình độ cao và phát huy vai trò, trách nhiệm của người phụ trách Sở Ngoại vụ trong khâu tuyển dụng cán bộ đối ngoại, không phó mặc cho Ban Tổ chức chính quyền và Ban Tổ chức Thành ủy. Điều đó tạo ra sự đào thải và tiếp nhận nhân sự một cách bình thường, tránh tình trạng “đóng băng”, và tạo cơ hội cho những sinh viên được đào tạo về chuyên ngành này, kể cả trong và ngoài nước, nhất là sinh viên giỏi có nhiều cơ hội được góp sức vào hoạt động đối ngoại của Hà Nội.

Về tuyên truyền đối ngoại, cần đẩy mạnh hơn nữa việc xây dựng một mạng lưới thông tin hiện đại, nhanh nhạy và cập nhật hai chiều giữa Thủ đô Hà Nội và thế giới bên ngoài, thông qua các cơ quan ngoại giao và cơ sở kinh tế nhiều bên ở cả trong và ngoài nước, thông qua các đối tác người nước ngoài và người Việt Nam, làm cơ sở cho việc khảo sát, tiếp thị, xây dựng, thực thi các hiệp định, chương trình, dự án. Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, các cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài để giới thiệu về lịch sử, văn hoá truyền thống, công cuộc xây dựng và phát triển đô thị, đặc biệt là những tiềm năng và cơ hội hợp tác quốc tế của Hà Nội với thế giới; mở rộng hơn nữa các quan hệ hợp tác song phương và đa phương.

Về kinh tế đối ngoại, Hà Nội cần coi trọng các sản phẩm xuất khẩu và thị trường truyền thống; nhưng phải hướng mạnh đến những sản phẩm xuất khẩu có giá trị cao, thu ngoại tệ mạnh. Mặt khác, cần tích cực mở rộng sản xuất các sản phẩm và thâm nhập thị trường mới; tiếp cận thị trường các nước công nghiệp phát triển. Trong cơ cấu nhập khẩu cần hạn chế việc nhập những mặt hàng mà trong nước có thể sản xuất được; khi nhập công nghệ mới phải tránh tổn thất do khấu hao vô hình, hoặc thiệt hại do nhập công nghệ lạc hậu. Xây dựng Hà Nội thành đầu mối bán buôn xuất - nhập khẩu và nguồn phát luồng hàng hoá lớn của khu vực. Phát triển các hình thức thương mại hiện đại (siêu thị, thương mại intenets, chợ đầu mối) và các dịch vụ sau khi bán hàng. Tiếp tục cải thiện toàn diện môi trường đầu tư Hà Nội nhằm tăng sức cạnh tranh khu vực và quốc tế. Cần có những điều chỉnh mạnh mẽ về chế độ ưu đãi tài chính, đất đai và tự do hoá kinh doanh cho các nhà đầu tư nước ngoài không thua kém mức ưu đãi của các nước trong khu vực. Quản lý chặt chẽ việc sử dụng các nguồn vốn vay của nước ngoài. Xây dựng và phát triển đồng bộ các thiết chế, các dịch vụ và hệ thống thị trường (hàng hoá, dịch vụ, lao động, vốn, bất động sản và công nghệ).

Về ngoại giao nhân dân, điều đáng quan tâm ở Hà Nội cũng như cả nước là: các tổ chức, đoàn thể chính trị, xã hội, nghề nghiệp đều được phân bổ ngân sách và tài sản công theo cơ chế bao cấp, làm “hành chính hóa” tất cả các tổ chức này, và từ đó hoạt động đối ngoại cũng không thể tránh khỏi mang tính chất hành chính làm cho ngoại giao nhân dân thiếu tự chủ và năng động, nhiều khi chỉ mang tính hình thức, gây lãng phí và ít có tác dụng đối với đông đảo thành viên của các tổ chức quần chủng. Trong việc cải cách hành chính, rất có thể và cần phải đổi mới việc quản lý các tổ chức đoàn, hội, đổi mới hoạt động ngoại giao nhân dân theo hướng phát huy tinh thần chủ động, tích cực, tự chịu trách nhiệm trước pháp luật Nhà nước.

Giao lưu quốc tế là một lĩnh vực hết sức đa dạng, phong phú, luôn sôi động cùng những biến chuyển của thời đại. Với những bài học thành công và chưa thành công, với quyết tâm và nỗ lực mới, Hà Nội sẽ vươn lên tầm cao mới, xứng đáng là đầu mối giao lưu quốc tế số một của cả nước./.

(Thanglonghanoi/Vietnam+)

Bản để in Lưu vào bookmark