25/09/2009 | 12:56:00

Thăng Long-Hà Nội đầu thời Nguyễn

Điện Kinh Thiên dưới thời Nguyễn. (Ảnh: Interrnet)

Năm 1802, Gia Long lên ngôi, đóng đô ở Phú Xuân, Thăng Long vẫn là thủ phủ (gồm 11 trấn) nhưng gọi là Bắc Thành, riêng phủ Phụng Thiên đổi ra Hoài Đức.

Năm 1804, vua ra lệnh phá thành cũ xây trên đó một tòa thành mới, nay còn có thể nhận diện: tường Bắc tương ứng với phố Phan Đình Phùng, tường Tây: Hùng Vương, tường Nam: Trần Phú, tường Đông: Phùng Hưng.

Như vậy, thành mới này chiều Bắc-Nam mở rộng hơn thành nhà Lê, còn mặt phía Đông thì thu hẹp hơn thành cũ (mặt phía Tây có thể vẫn trùng với thành cũ), tương ứng với Hoàng thành đời Lê.

Năm 1831, Minh Mạng cải cách bộ máy hành chính, bỏ các trấn, chia cả nước làm 29 tỉnh, trong đó có tỉnh Hà Nội gồm phủ Hoài Đức, huyện Từ Liêm có trấn Sơn Tây và 3 phủ ứng Hòa, Thường Tín, Lý Nhân của trấn Sơn Nam. Thăng Long hạ xuống thành tỉnh lỵ Hà Nội.

Riêng khu vực kinh thành Thăng Long cũ gồm hai huyện Thọ Xương và Vĩnh Thuận (tên mới của Quảng Đức) thì từ đời Gia Long đã không được giữ quy hoạch 36 phường nữa mà bị chia ra thành nhiều phường nhỏ, thôn, trại. Thọ Xương có 194 phường, thôn; Vĩnh Thuận có 56 phường, thôn. (Đến thời Minh Mạng gộp lại còn 116 và 27).

So với trước, sự phát triển kinh tế của Hà Nội nửa đầu thế kỷ XIX không được đều. Các phường, thôn phía Tây và Nam có xu hướng nông thôn hoá chuyên về nghề nông có kết hợp thủ công. Bộ mặt đô thị Hà Nội dồn về khu phía Đông và Đông Nam. Ở đây phố phường ngang dọc như bàn cờ, nhà cửa kề nhau. Khu Phủ Chúa Trịnh (bị Chiêu Thống cho phá năm 1787) và vùng quanh Hồ Gươm nhanh chóng thành khu dân cư, buôn bán và thủ công.

Các công trình văn hóa và sinh hoạt văn hóa có những biến đổi. Quốc Tử Giám dời vào Huế, Văn Miếu thuộc tỉnh Hà Nội quản lý. Trường Thi Hương trên phố Tràng Thi nay là Thư viện Quốc gia. Phường Hòe Nhai và sau đó là phố Hàng Giấy là nơi vui chơi giải trí đàn ca.

Đặc biệt, một số tư nhân đứng ra quyên góp xây dựng một số công trình như Nguyễn Văn Siêu với quần thể đền Ngọc Sơn, Nguyễn Đăng Giai với Chùa Báo Ân 180 gian bên bờ hồ Hoàn Kiếm.

Ngoài ra, Hà Nội còn có nhiều nhà văn hóa nổi tiếng khác như Cao Bá Quát, Nguyễn Văn Lý, Vũ Tông Phan, bà Huyện Thanh Quan... Tuy mất vị trí kinh đô, nhưng kinh tế Hà Nội vẫn phát triển. Người ngoại quốc tới buôn bán đông hơn trước, nhất là Hoa kiều.

Một người nước ngoài có mặt ở Hà Nội nửa sau thế kỷ XIX vẫn công nhận: "Dù không phải là kinh đô nữa, Kẻ Chợ (tức Hà Nội) vẫn là một thành phố đứng đầu cả nước về nghệ thuật, về công nghiệp, về thương nghiệp về sự phong phú, về dân số, về lịch thiệp và về văn hóa... Tóm lại, đây chính là trái tim của dân tộc này (Việt Nam)" (De la Liraye - 1866).

Hà Nội chống thực dân Pháp xâm lược

Ngay khi thực dân Pháp chiếm 3 tỉnh Đông Nam Kỳ, toàn thể thí sinh trường thi Hương Hà Nội khoa 1864 đã vứt bỏ lều chõng không chịu vào trường thi, cùng nhau tới Văn Miếu làm lễ, sau đó kéo về Hồ Gươm, vừa đi vừa hô lớn xin được vào Nam giết giặc. Cuối năm 1872, khi lái buôn J.Dupuis đến Hà Nội thăm dò gây rối thì y vấp phải sự đánh trả của người dân.

Đầu tháng 11/1873, F. Garnier đem quân tới Hà Nội, chỉ 15 ngày sau, sáng 20/11/1873 y nổ súng. Do từ lâu, triều đình chủ hòa nên thành trì không được phòng thủ thích đáng. Garnier chiếm được thành. Tướng chỉ huy là Nguyễn Tri Phương đã quyết chiến đấu đến cùng, cùng nhân dân nổi dậy kháng Pháp, kết quả là giết được Garnier ở Cầu Giấy (21/12/1873).

Triều đình Huế trước sau chỉ lo việc cầu hòa không nghĩ đến chuyện kháng Pháp. Họ nhường cho Pháp khu Đồn Thủy (khu vực Bảo tàng Lịch sử và Bệnh viện Việt Xô hiện nay) làm nhượng địa. Đầu tháng 3/1882, Henri Rivière được phái đến Hà Nội. Y gửi tối hậu thư cho Hoàng Diệu đòi ông đầu hàng. Mặc dầu không được lệnh của triều đình Huế, Hoàng Diệu đã chống trả một cách anh dũng và tuẫn tiết theo Thành. Nhân dân Hà Nội không chịu đầu hàng và liên tục chiến đấu, một lần nữa phối hợp với quân Cờ đen, tiêu diệt đạo quân của Rivière ở Cầu Giấy làm cho quân địch hoang mang (19/5/1883).

Trong tình hình ấy, triều đình Huế vẫn không cho quân tiếp viện ra Hà Nội, Tự Đức vẫn chỉ hy vọng lấy lại Hà Nội bằng con đường hòa hảo và ký hiệp ước năm 1884, công nhận sự đô hộ của người Pháp. Từ đấy thực dân dần dần tổ chức bộ máy cai trị thành phố Hà Nội, lập quy hoạch đô thị hóa theo kiến trúc phương Tây và tới năm 1888 vua Đồng Khánh đã ký chỉ dụ dâng Hà Nội cho thực dân Pháp./.

(TTXVN/Vietnam+)

Bản để in Lưu vào bookmark